Monday, October 19, 2009

VÀI KHÁI NIỆM VỀ CHỮ TRONG KINH ĐIỂN

TT Tuệ SIêu

I. VÀI KHÁI NIỆM VỀ CHỮ HƯ TRONG KINH ĐIỂN

Nếu chữ "hư" có nghĩa là giả, không thật thì có lẽ trong Hán tự có nhiều ngữ cảnh liên hệ đến chữ nầy. Thử nêu ra dưới đây ba trường hợp.

A. HƯ NGỤY

Hư nguỵ có thể dùng để chỉ cho sự giả trá.

- Do đầy đủ ba điều kiện, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn có thể chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kẻ cướp trộm một nhà, làm kẻ đứng đường chận cướp. Thế nào là ba?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm trở, dựa vào rừng rậm, dựa vào kẻ có quyền lực.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo đầy đủ ba pháp, tự mình xử sự như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở, dựa vào rừng rậm và dựa vào kẻ có quyền lực.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào sự hiểm trở? Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo đầy đủ với thân hành quanh co hiểm trở, với ngữ hành quanh co hiểm trở, với ý hành quanh co hiểm trở. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến, đầy đủ những tri kiến đi đến cực đoan. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là các Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền? Ở đây, này các Tỷ-kheo, dựa vào các vua hay các đại thần của vua, ác Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Nếu có ai kết tội ta, các vua ấy, hay các đại thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta". Và thực sự là như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền lực.

Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và tạo nên nhiều điều vô phước.

B. HƯ ẢO

Hư ảo dùng để chỉ tính cách tạm bợ, phù du của cuộc sống.

170. Hãy nhìn như bọt nước,

Hãy nhìn như cảnh huyển!

Quán nhìn đời như vậy,

Thần chết không bắt gặp.

171. Hãy đến nhìn đời này,

Như xe vua lộng lẫy,

Người ngu mới tham đắm,

Kẻ trí nào đắm say.

C. HƯ VÔ

Hư vô là một từ đặc biệt tế nhị trong triết học Phật giáo. Phật giáo Trung Hoa đôi khi nói về tánh không có nhuốm mà sắc của Lão Trang. Đoạn kinh dưới đây nói về sự phát triển của các tâm thiền vô sắc là một thí dụ điển hình về hư vô là đối tượng của tâm thiền.

- Người tu hành sau khi chứng các tâm thiền ở cõi sắc giới muốn tu lên các cõi thiền ở vô sắc giới. Vị này định tâm trên Patibhàganimitta (Quang tướng) như đã nói trong chương trước. Khi vị này chú tâm, thời một ánh sáng yếu ớt, như con đom đóm, phát xuất từ đối tượng ấy. Vị tu hành muốn cho ánh sáng ấy tràn lan khắp cả hư không, và nay chỉ thấy ánh sáng ấy chiếu khắp tất cả mọi chỗ. Cái hư không vô biên ấy không phải là một hiện thực mà chỉ là một tưởng tượng gọi là Kasinagghatimàkàsa (hư không phát sanh từ Kasina). Trên đối tượng ấy, người tu hành chú tâm và nghĩ "Àkàsa ananto" (Hư không là vô biên) cho đến khi chứng được đệ nhứt thiền. Rồi vị này chú tâm trên đệ nhứt Arùpajhàna và suy tưởng: "Vinnànam anantam" (Thức là vô biên) cho đến khi chứng được đệ nhị thiền (Vinnànancàyatanam). Muốn chứng đệ tam thiền, người tu hành lấy đệ nhứt thiền làm đối tượng tu hành và suy nghĩ "Natthi kinci" (không có vật gì tất cả). Muốn chứng đệ tứ thiền, người tu hành lấy đệ tam thiền làm đối tượng tu hành, và vì đệ tứ thiền quá tế nhị nên không thể nói là có tưởng hay không có tưởng.

TT Tuệ SIêu

Friday, October 16, 2009

Hiện Tượng Bát Nhã - Phần Thưởng Hay Quả Báo Vô Minh?

Trong những bài trước đây, viết về tình hình của Phật giáo tại quê nhà, và sự kiện đàn áp dã man trong tiến trình “quyết tâm tiêu diệt tận gốc rễ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất” của ác đảng Cọng sản Việt Nam, chính tôi đã đề cập rất nhiều về Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai. Tôi cũng đã tỏ nỗi ưu tư của riêng mình đến với quý Ngài trong GHPGVNTN rằng: Phần đông Phật tử trong lẫn ngoài nước đã bị Thiền sư Nhất Hạnh thu phục chiếm lấy cảm tình hết cả rồi, vả lại cũng có nhiều thân hào nhân sĩ ngoại quốc biết Thiền sư Nhất Hạnh. Đang lúc quý Ngài trong GHPGVNTN không ngừng tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam, nếu Thiền sư Nhất Hạnh chỉ cần một lần lên tiếng thôi thì có thể lôi kéo lớn mạnh lực lượng toàn dân ở hải ngoại, và Cọng sản Việt Nam cũng đã suy vi hoặc sụp đổ rồi. Tiếc rằng Thiền sư Nhất Hạnh và nhóm Tăng thân làng Mai chỉ biết thủ lợi riêng tư và nhu nhược quá!

Đó là tâm sự của chính tôi. Tôi cũng mong mỏi ở Thiền sư Nhất Hạnh sẽ có lối nhìn thực tế hơn trong vấn đề nhân quyền, tôn giáo. Thế nhưng, càng đợi chờ, càng thất vọng! Để rồi, trong một bài viết mới đây (3/2007), tựa đề “Sư Ông Nhất Hạnh Ðang Ðốt Ngôi Nhà Chánh Pháp” tôi buộc lòng phải khổ tâm vừa nhắn nhủ, vừa chỉ trích: “Thuở xưa, nền móng chính trị đứng đắn ở thời Ðinh Lê Lý Trần, thường chú trọng đến minh sư, tiên sư để làm cho đạo đức vinh hoa, quốc gia thăng tiến, muôn dân an lạc. Ngày nay, chính trị lưu manh dối trá bất đạo như nhà nước Cọng sản Việt Nam thường hay chú trọng đến những kẻ tham danh tham vọng, dụng đạo cầu danh; vì thế nên hạng tục sư, ma sư lấp ló khắp nơi để mua danh bán đạo. Thậm chí những kẻ ở xa nửa quả địa cầu cũng tranh nhau bu tới hành nghề bám lợi, dù biết rằng ló ra là bị phản bác khắp nơi nhưng mớm lợi vốn đã làm mờ lý trí” mong đánh được tính tự ái, lòng từ bi và sự quan tâm tối thiểu của Thiền sư Nhất Hạnh đối với đồng đạo của mình. Ngược với lòng mong mỏi, đau đớn thay! Thiền sư Nhất Hạnh, hai lần liên tiếp trong những năm 1999 và 2005, đã dẫn hơn 300 Tăng thân làng Mai ồ ạt kéo về Việt Nam giải oan cứu nguy cho tập đoàn ác đảng CSVN, chính là việc dẫn đường cho George W Bush đã mang cõng 3 món quà giá trị và quý báu nhất từ Hoa Kỳ đến Việt Nam dâng hai tay lên cho ác đảng…

Diễn biến thấy rõ: Cả đàn con xuất thân từ Làng Mai, Làng Hồng không ngừng tiếp sức, giải oan, cứu lấy người mẹ của mình là đảng CSVN; họ đã kết lên trên áo “mẹ” họ một bông hồng rực rỡ và tự hào nhắc nhở “mẹ của mình muôn năm”. Nhưng, kết quả sẽ đến như thế nào? Mẹ đã tặng con lại cái gì? Ấy là những bông màu trắng mà “mẹ” đang gắn lên ngực, trên trái tim của các con với lối trù ẻo kín đáo rằng: Các con sống mà như đã chết, hoa trắng mà mẹ cho các con tượng trưng cho ngày tàn của các con, vốn bởi vì mẹ con chúng ta khác máu. Máu của con là máu Âu Cơ, còm máu của mẹ là máu Lê-Mác. Mẹ và Con chúng ta không cùng tồn tại, cũng chẳng thể sống chung một nhà với nhau được! Các con cài hoa hồng cho mẹ đây là do Ý THỨC của các con, ý thức non bé; còn mẹ gắn hoa trắng màu tang cho các con là vì BỔN PHẬN của mẹ, bổn phận phải thanh trừ tiêu diệt các con khi mẹ khỏe mạnh!

Tình huống hôm nay diễn ra đúng như kế hoạch của “mẹ” đã sắp đặt. Ý THỨC của đàn con Làng Mai quá hạn hẹp kém cỏi, tưởng rằng cứu mẹ là mẹ sẽ biết ơn các con. Không ngờ khi mẹ nắm trong tay 3 món quà quý do George W Bush tặng, mẹ bóp cổ các con ngay lập tức. Đứa con hiếu thảo nhất của mẹ là “Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Miền Nam” tuy đã có công lớn cống hiến miền Nam cho mẹ nuốt chửng, nhưng khi mẹ đã thành công sau 4/1975 rồi, thì mẹ cũng xóa sổ nó thay, huống hồ là đứa con vẹp Làng Mai, Làng Hồng?

Rõ đã mấy tháng qua; “đàn con dại từ lâu vất vưỡng” ở các nơi như Tu viện Bát Nhã, Mây Đầu Núi, Bếp Lửa Hồng, Rừng Phương Bối - Việt Nam. Chùa thì có (Bát Nhã), to như điện Thiên, đẹp như cảnh Tiên, mà đàn con gồm hơn 400 người sống không nơi nương tựa, ăn rau rừng nhưng không đủ, ngủ trên sỏi cát mà cũng chẳng an, điện thành Hồ sáng toang mà ánh sáng chiếu chẳng tới; đèn dầu loạng choạng u ám như Thiền ngục vô minh; mưa ướt đẫm mình, lạnh teo da buốt dạ.

Quý ngài trong GHPGVNTN thấy đau lòng muốn can thiệp nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Thật thế, nếu không rõ lai lịch của người mình muốn cứu, hóa có phải hy sinh thân mạng mình để cứu tay chân của ác đảng vốn là kẻ thù của Dân tộc hay sao? Vì thế, theo bản Thông cáo Báo chí làm tại Paris ngày 22.9.2009, Thượng tọa Thích Viên Định đã lên tiếng như sau: “Thiền sư Nhất Hạnh là khách của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, về hợp tác với Giáo Hội và Nhà cầm quyền Cộng sản. Trong vụ này (công an cướp chùa, tống khử Tăng Ni ở tu viện Bát Nhã – người viết chú), chưa hề thấy thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp lên tiếng như thế nào. Sự việc chưa rõ ràng nên không biết căn cứ vào đâu để hỗ trợ. Nhưng, việc Nhà cầm quyền cộng sản trấn áp chư Tăng Chùa Bát Nhã bằng cách cúp điện, cúp nước, ném đá, ném phân, ngăn chặn đường, không cho người vào tiếp tế lương thực, là một hành động đàn áp tôn giáo quá rõ ràng. Việc đàn áp kéo dài, xảy ra ngay bên cạnh. Nạn nhân lại là đồng bào, đồng đạo, ai thấy mà không tức giận, đau lòng... Không phải quí Hoà thượng trong GHPGVNTN không lên tiếng. Thực ra, quí ngài đã lên tiếng từ lâu rồi. Năm 1998, nghe tin Thiền sư Nhất Hạnh dự định về Việt Nam hợp tác với Nhà cầm quyền cộng sản, Hoà thượng Thích Quảng Độ đã viết thư đề nghị Thiền sư Nhất Hạnh, bằng những lời nhẹ nhàng, tế nhị, đại ý: “Việt Nam chưa có tự do, dân chủ, nhân quyền, đừng về hợp tác, buôn bán, làm ăn, coi chừng sập tiệm, sẽ mất cả chì lẫn chài!... Bất chấp lời khuyên của Hoà thượng Thích Quảng độ, năm 2005, Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam, kéo theo đoàn tùy tùng đông đảo lên đến 100 người. Chuyện đã lỡ, nhưng còn nước còn tát, Thượng toạ Thích Viên Định cố gắng viết một tâm thư, “Trả lời thư Thiền sư Nhất Hạnh” , phân tích lợi hại chuyến về Việt Nam không được khế thời, và tường trình cặn kẻ cho Thiền sư Nhất Hạnh biết, nhân dân Việt Nam đang bị khốn khổ vì nạn độc tài, độc đảng, nhân quyền, tôn giáo bị đàn áp rất nặng nề. Hy vọng qua thư đó, thấy rõ sự đau khổ của đồng bào Việt Nam, bị kiềm kẹp trong ách độc tài, Thiền sư sẽ đi theo con đường của GHPGVNTN, hợp cùng với các thân hào nhân sĩ và 85 triệu đồng bào, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam.”

Ôi! Âu cũng do hậu quả của “ông Cha - là Thiền sư tiếng tăm lừng lẫy Làng Mai Pháp quốc” đã mang đàn con gồm mấy trăm Tăng Ni sinh về Việt Nam để hà hơi, tiếp sức, cứu nguy, giải độc cho “mẹ”; hô to khẩu hiệu cho thế giới biết rằng “bà Mẹ - là ác Đảng CSVN” thật sự có tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền.

Hôm nay, bà Mẹ thật sự ra tay giết sạch đàn con gồm 400 đứa: Tịch thu chiếu khán, đàn áp, đánh đập dã man... khiến cho họ khóc la thảm thiết, tiếng dậy vang trời, vọng khắp năm châu, lan tràn bốn biển. Đàn con 400 đứa từ Bát Nhã đã gào kêu cứu đến hết sức đứt hơi, vậy mà ông Cha tại Làng Mai Pháp quốc, vẫn an nhiên tọa thị, cắt đứt dây chuông, đóng kín Thiền môn, khép chặt màng nhĩ…

Phải chăng, Thiền sư Nhất Hạnh phải đành câm miệng như hến; thà chấp nhận vong ơn bội nghĩa, còn hơn mang tiếng u mê? Xin được phân tích:

1) Thứ nhất, chuyện đồng môn, đồng đạo và đệ tử ruột của mình bị Việt Cọng bức tử ở chùa Bát Nhã, Thiền sư Nhất Hạnh thật quá sức thấy, biết; nhưng tuyệt đối không muốn lên tiếng báo động thế giới để giải cứu cho họ ra khỏi nanh vuốt của CSVN. Đành phải ngậm đắng nuốt cay, cam chịu làm người vong ân, bội nghĩa. Thế thì còn gì để gọi là một vị Tu sĩ Phật giáo?

2) Thứ hai, giả sử nếu Thiền sư Nhất Hạnh lên tiếng phản đối chế độ Cọng sản Việt Nam, lên án tố cáo đảng CSVN để cứu lấy 400 đệ tử của mình, thì Thiền sư hẳn để lộ ra hai điểm như sau:

- Bản chất tham lam, bội tín: Nghĩa là, Đảng cho ăn, cho mặc, cho cơ hội khoe danh, thì háo hức theo hầu nịnh hót. Đảng hết cho ăn mặc hoặc gây khó khăn, thì quay lại kết án chống Đảng. Người ta sẽ thấy rõ sự bội tín này của Thiền sư Nhất Hạnh!?

- Trí óc u mê: Đảng CSVN vốn là thứ Tam vô, gian ác; người người khinh ghét, thế giới chối từ; thế mà bản thân mình vốn là một vị Thiền sư sáng suốt, nhưng không nhận ra được điều này của Cọng sản, lại bám theo làm bạn, kết duyên. Cho mên kết quả mới thảm khốc thế này. Đó có phải là cái trí u mê của một “Thiền sư” hay không? Hơn thế, điều này còn ảnh hưởng không ít đến kho tàng sách vở của Thiền sư Nhất Hạnh. Bởi vì một sự thật trước mắt về đảng CSVN mà Thiền sư cũng nhận diện không rõ; vậy thì bao nhiêu sách vở mà Thiền sư viết, hóa được viết ra từ u minh đoản trí hay sao? Hỏi ai còn muốn đọc?

Qua hai điều 1) và 2) trên, thực hiện điều này thì bị vấp điều kia, đàng nào “Thiền sư” cũng tiêu tùng cả!

Nhưng, há lẽ Thiền sư cứ tiếp tục ngồi an nhiên, mặc kệ cho đàn đệ tử của mình bị CSVN bách hại hay sao??? Liệu khi chết, Thiền sư lúc chết có nhắm mắt nổi không? Nhưng phải cứu như thế nào để còn được lợi dân ích nước, ấy là điều mà Thiền sư cần phải cẩn trọng suy xét và hoạch định để khỏi phải giẵm vào một vùng vô minh thứ hai nữa.

Viết đến đây, Con vô cùng cảm phục trí anh minh, đức từ bi, lòng vị tha, tinh thần bất khuất và lập trường kiên cố của quý Ngài trong hàng Giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã kiên trì sống chết với bọn ác đảng Cọng sản Việt Nam, loại bỏ ma quân, quyết không hòa hợp. Con đây, sức mỏng tồi dày, chưa làm được gì cho quê hương. Nhưng quý Ngài, mặc dù tuổi tác đã cao, lại hy sinh quá nhiều cho Quốc gia Dân tộc và Đạo pháp, bị bọn Việt gian giáo gian đánh phá, vào tù ra tội, máu đổ xương rơi, mà đến bây giờ Quốc nạn vẫn chưa qua, Pháp nạn còn chưa khỏi. Con xin tâm thành cúi đầu đảnh lễ quý Ngài suốt một cuộc đời còn lại để tưởng nhớ công ơn hy sinh cao cả đó của quý Ngài cho mục đích thiêng liêng cao tột!

Còn riêng, xin quý Tăng Ni hiện đang phục vụ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Quốc doanh) hãy nên lấy sự vụ chùa Bát Nhã và sư Nhất Hạnh để làm bài học cho phương hướng hành hoạt và phụng sự Đạo pháp của mình cho hợp lẽ; hãy công khai thoát ly ngay khỏi cái Giáo hội quốc doanh ba búa đó. Mạnh Thát, Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ cũng nên dùng Thiền sư Nhất Hạnh về vụ Bát Nhã để soi sáng cho mình; đừng có tưởng rằng triệt hạ Ngài Quảng Độ để mang GHPGVNTN về cho Mặt trận Tổ quốc là được tặng thưởng và ăn yên ngủ yên đâu nhé, mà đang có giây thòng lọng chờ treo cổ phía trên. Lại nữa, những kẻ làm Giáo gian, Việt gian hãy nên nhìn lại mấy thứ bại hoại như Trần Trường, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy để mau quay về đường chánh. Những ai muốn cọng tác làm ăn với đám côn đồ ác đảng CSVN, hãy nên lấy trường hợp của tên “vua chả giò Hòa Lan Trịnh Vĩnh Bình” để soi! Bao cảnh đổ nát tang thương gây ra bởi CSVN cho những tên nhẹ dạ, vô thức, vô trí thật đếm không xuể. Tiếc rằng, bọn vô thức đứng từ bên bờ này, thấy miếng bánh mì bên bờ kia là cúi đầu lao đến, chứ chẳng chịu nhìn ở giữa cái vực hố thẳm sâu!!!

Tin tưởng và làm bạn với chó dữ, cọp đói; vẫn còn tốt và an toàn hơn ngàn lần so với việc tin tưởng hoặc làm bạn với bọn Cọng sản Việt Nam! Dứt khoát muôn đời như thế!

Lãnh hải, lãnh thổ, Hoàng Sa, Trường Sa, quê hương đất nước chung của Tổ tiên, của cả Dân tộc mà chúng còn mang dâng cho Tàu Cọng; huống hồ từng cá nhân, từng cọng đồng, từng tôn giáo mà nói làm gì? Thế mà có kẻ cam phận làm tay sai cho ác đảng khiến! Than ôi! Nhân phẩm ở đâu? Trí óc ở đâu rồi?

Biến cố xảy ra tại tu viện Bát Nhã, phải chăng là phần thưởng của đảng Cọng sản Việt Nam trao cho làng Mai vì đã có công giải độc cứu “mẹ”, hay là quả báo vô minh bởi đã cố tình phụng sự ma vương ác đảng của Tăng thân Làng Mai? Xin nhóm làng Mai hãy mở cửa phòng cho ánh sáng lọt vào, nhảy ra ngồi thiền dưới mặt nhật để quán tưởng!

Và, cuối cùng xin được nhấn mạnh một lần nữa, thiết nghĩ Hiện tượng Bát Nhã, làng Mai và Thiền sư Nhất Hạnh là một BÀI HỌC ngàn đời quý báu cho toàn khối Phật giáo quốc doanh, Thiên Chúa giáo quốc doanh; cho toàn thể những tên Giáo gian, Việt gian đã bán rẻ linh hồn chiêu hồi ác đảng đang hại dân hại nước. Hãy nên mang bài học này về hằng đêm gối đầu, suy nghiệm; để sớm xa lìa ác đạo, phụng sự chính nghĩa, diệt kẻ thù chung. Chỉ mong có thế!

Hoài Nam

Ngày 30 tháng 9 năm 2009

Friday, October 9, 2009

Lễ ra mắt Diễn Đàn Cư Sĩ Ưu Tư Với Tiền Đồ Dân Tộc và Đạo Pháp.

VGTT- Aug 16, 2009.

Lễ ra mắt Diễn Đàn Cư Sĩ Ưu Tư Với Tiền Đồ Dân Tộc Và Đạo Pháp trên mạng hội thoại Paltalk, đã được long trọng cử hành đúng 19:00 PM giờ California ngày 15 tháng 08, 2009 vừa qua, dưới sự chứng minh của Chư Tôn Ðức trong GHPGVNTNHN, VPII, VHÐ tại Hoa Kỳ và Canada bởi HT Thiện Tâm và TT Giác Ðẳng. Chương trình buổi lễ diễn tiến suông sẻ từ đầu đến cuối ngọai trừ một vài trục trặc nhỏ không đáng kể, với số người tham dự có lúc cao điểm lên đến hơn 80 kể cũng là đã thành công.

Buổi lễ được tiến hành đúng với chương trình đã phổ biến kèm theo Thư Mời Tham Dự Lễ Ra Mắt Diễn Đàn Cư Sĩ ngày 15 tháng 07, 2009, hơn 4 giờ đồng hồ liên tục, không gặp trục trặc kỹ thuật, hoặc trở ngại đường truyền nào, quan khách tham dự hầu hết ngồi lại đến phút chót đến khi diễn đàn đóng cửa thì mới giải tán, ...room ai nấy về.

Bản thân TTK Tuệ Kiếm cầm mic làm MC dẫn chương trình, tuy không có trục trặc hay sai sót nhiều nhưng cũng có lúc phải ...lên ruột, chẳng hạn như sắp đến giờ Chư Tôn Đức niệm hương lễ bái Tam Bảo mà không thấy HT Thiện Tâm online (trong khi TT Giác Ðẳng đã online 20 phút trước giờ khai mạc. Sadhu! chúng con kính tri ân TT Giác Ðẳng về điểm này), may sao đ/h Ủy viên Ðặc Trách Liên Lạc Và Kỹ Thuật Nguyên Tịnh Bảo Phán (Dương Tiêu) kịp thời text chat lên rằng HT Thiện Tâm sẽ niệm hương lễ bái qua điện thoại tiếp vận bởi Dương Tiêu. Mừng quá, thế là yên chí tiếp tục chương trình (Chẳng là vì HT Thiện Tâm đang tham gia hướng dẫn khóa tu học tại một ngôi chùa không có đường truyền Internet ở New York).

Các tiết mục trong phần thứ nhất của chương trình hầu hết là nghi lễ, mọi sự diễn ra tốt đẹp. Ð/h Ủy viên đặc trách Ngoại Vụ VoBatPhi với lời chào mừng quan khách giọng miền Nam trầm ấm chân tình qua giòng lịch sử với những tấm gương tranh đấu bảo vệ và phát huy dân tộc song song với đạo pháp từ thời xa xưa Ðinh Lê Lý Trần cho đến hiện trạng bức thiết, khiến cho người nghe có cảm giác gần gũi, thân thiện, thì đ/h Ủy viên Ðặc trách Nội vụ Tuệ Vũ trong phần bày tỏ tâm tình qua Tâm Thư số 2 bằng giọng Bắc mạnh mẽ, thiết tha, với những mối trăn trở, ưu tư về hiện tình quốc nạn, pháp nạn và GHPGVNTN dưới nhiều âm mưu bách hại tàn độc của cộng sản Việt Nam, nhằm xóa sổ một giáo hội dân lập truyền thừa, nhằm tiêu hủy tiềm năng của một lực lượng đấu tranh dựng nước, giữ nước ẩn tàng nơi hàng ngũ cư sĩ và Gia Ðình Phật Tử, đã đánh động được lòng người, lôi cuốn sự chú ý của thính giả nên đã có nhiều đóa hoa tán thưởng xuất hiện trên màn hình.

Phần niệm hương lễ bái Tam Bảo theo truyền thống Bắc Tông, và đạo từ của HT Thiện Tâm, qua tiếp vận điện thoại, tuy âm thanh không được trong trẻo lắm, nhưng cũng đã là một cố gắng tối đa của đ/h Dương Tiêu, cũng đủ làm cho mọi người ấm lòng hơn, vì HT Thiện Tâm đã không quản ngại giờ giấc trái khóay, thiếu thốn phương tiện, vẫn mở lòng lân mẫn, thương tưởng các hàng Phật tử trông đợi được lắng nghe câu kinh tiếng kệ, lời vàng pháp bảo qua sự quảng diễn của quý Ngài. Về điều này cũng xin được tán thán công đức vô lượng của đ/h Ủy Viên Liên Lạc & Kỹ Thuật Dương Tiêu, đã bỏ biết bao công của. Pháp nhũ của TT Giác Ðẳng tuy ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa sách tấn khiến mọi thành viên diễn đàn càng thêm phấn khởi, không uổng phí bao công sức khó nhọc, thời giờ bỏ ra để xúc tiến thành lập diễn đàn.

Một tiết mục bất ngờ không chuẩn bị trước nhưng cũng đã được thu xếp đưa vào chương trình một cách khít khao, không ai nghĩ rằng là bất ngờ. Ðó là phần đôi lời chia sẻ tâm tình trong tinh thần đoàn kết tôn giáo của Linh Mục Nguyên Thanh, Cha Nguyên Thanh đến diễn đàn từ California qua sự tiếp vận đường điện thoại của phóng viên Paltalk thuộc diễn đàn Tiếng Nói Tự Do Của Người Dân Việt Nam, anh Biển Nhớ. Sở dĩ Diễn Ðàn Cư Sĩ có được tiếng nói của Linh Mục Nguyên Thanh là vì trong đợt Thắp Lửa Hiệp Thông Cầu Nguyện cho Giáo Xứ Tam Tòa ngày 02 tháng 08, 2009, Diễn Ðàn đã gửi văn thư đến Linh Mục xin tham gia hiệp thông qua một thành viên Ban Liên Lạc Và Kỹ Thuật của diễn đàn, Cô Ngọc Phương Nam đại diện chính thức của diễn đàn đã đến tận nơi hành lễ. Và lần này, khi ra mắt, diễn đàn cũng đã gửi văn thư mời đến Ngài, đáp lại, Ngài đã góp tiếng nói trong ngày ra mắt.

Phần thứ hai của chương trình được bắt đầu bằng bài thơ "Trên đường lưu đày" trong Tập Thơ Tù của HT Quảng Ðộ do nhà xuất bản Quê Mẹ của GS Võ Văn Ái phát hành. Bài thơ được diễn ngâm qua một giọng Huế nữ ray rứt đầy xúc cảm khiến thính giả không cầm được nước mắt, hoa hồng và khuôn mặt nước mắt tràn ngập cả phòng, đó là giọng ngâm của một thành viên Ban Tu Thư và Dịch Thuật, đ/h Tuệ Giang.

Nội dung của bài thơ với những câu "Với bàn tay của những kẻ vô thần, đạo pháp tan hoang, giang sơn rách nát" và "tôi nguyện sẽ không bao giờ khuất phục, những kẻ chỉ biết tin nơi bạo lực, nuôi hận thù và giết chết tình thương " Những lời thơ của Ngài trong tập Thơ Tù giống như là những bản cáo trạng, trực tiếp hoặc gián tiếp nói lên vô số tội ác của CSVN, bài thơ trên là một trong những bài thơ mà Ngài đã làm khi ngồi đâu đó trong một cái nhà tù nhỏ nằm trong nhà tù khổng lồ đất nước Việt Nam, HT Thích Quảng Độ, bậc lãnh đạo tinh thần kiên cường bất khuất của chúng ta, đã không biết bao lần cất lên tiếng kêu cảnh báo họa mất nước, nạn diệt vong, Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy dấn thân, đã được TK đưa vào lời dẫn cho bài "Lời kêu gọi dân chủ cho Việt Nam" của Ngài Quảng Ðộ, và đã được TK đọc để dẫn vào phần thuyết trình của bình luận gia Lý Ðại Nguyên với đề tài "Trách vụ của người cư sĩ trước hiện tình quốc nạn, pháp nạn", là tiết mục chính yếu của của chương trình ra mắt Diễn Ðàn Cư Sĩ.

Trong phần thuyết trình, GS Lý Ðại Nguyên đã chia sẻ những quan niệm của Ông đối với vấn đề quốc nạn, pháp nạn và người cư sĩ. Suốt trong một giờ đồng hồ, Ông sơ lược về Phật giáo và Ngũ Giới của người cư sĩ, đến ý nghĩa của Phật Pháp Tăng, Ông nhấn mạnh rằng cư sĩ là sự sống của đạo pháp, là nội lực dân tộc, Ông cũng nhắc đến quan niệm phải tách rời tôn giáo ra khỏi cơ chế chính quyền, rồi Ông đưa thính giả đi theo giòng lịch sử Phật giáo qua nhiều thời đại cùng với tính chất, vai trò của cư sĩ Phật giáo trong từng thời kỳ, cuối cùng là pháp nạn dưới chế độ cộng sản, Ông cũng đã nhắc đến một vài tấm gương hy sinh của hàng ngũ cư sĩ trong công cuộc đấu tranh phản đối sự đàn áp của bạo quyền cộng sản trước khi bước sang phần hội luận.

Trong phần hội luận, Ủy viên Ðặc trách Nội vụ, Tuệ Vũ, đã làm không khí sinh động và nóng bỏng hơn với những câu hỏi mang nhiều tính chất thời sự qua các hiện tượng đánh phá GHPGVNTN của các nhóm Thân Hữu Già Lam, Về Nguồn, Giáo Hội tiếm danh Liên Châu, ký kết mới giữa Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam để thực hiện Nghị quyết 36 nhằm công khai bành trướng hải ngọai của ban tuyên giáo CSVN, đã khiến GS Lý Ðại Nguyên lắm khi phải cao giọng kêu gọi giới tu sĩ cũng như hàng ngũ cư sĩ Phật tử phải cảnh giác trước những âm mưu từ đàn áp đến chiêu dụ, đồng hóa đến lũng đọan của CSVN, cho thấy được tâm huyết của diễn giả cũng như điều hợp viên cùng các thành viên tham dự buổi lễ ra mắt Diễn Ðàn Cư Sĩ.

Sau hơn 4 giờ đồng hồ liên tục, buổi lễ kết thúc với phần cảm tạ quan khách của đ/h Ngũ Uẩn, Ủy Viên Ðặc Trách Tu Thư Và Dịch Thuật thực hiện, phần Hồi hướng do đ/h Dương Tiêu, và thông báo giờ giấc sinh hoạt chính thức hàng tuần bởi TTK Tuệ Kiếm.


Tổ chức Diễn Ðàn Cư Sĩ Ưu Tư Với Tiền Ðồ Dân Tộc Và Ðạo Pháp, tiếng nói đấu tranh của người cư sĩ Phật tử trên mạng hội thoại Paltalk, phát huy giáo lý Phật Ðà, ủng hộ GHPGVNTN dưới sự lãnh đạo của HT Quảng Ðộ, mới vừa thành lập, vẫn còn non trẻ, mong mỏi được sự yểm trợ, tiếp tay của tất cả mọi tổ chức, đoàn thể Phật giáo khác có cùng chí hướng, để phát triển rộng rãi hơn, biến thành một lực lượng cư sĩ đòan kết trong và ngoài nước nhằm phục hưng tinh thần Phật giáo truyền thống không bị nhuộm hồng, nhuộm đỏ bởi bàn tay vô thần của CSVN, trong buổi Lễ Ra Mắt hôm Thứ Bảy 15 tháng 08, 2009 vừa qua, chắc chắn đã không tránh khỏi sự thiếu sót, kính mong tất cả Chư Tôn Ðức, quý ngài lãnh đạo các tôn giáo, quý đoàn thể, quý huynh trưởng, đoàn sinh GÐPT, quý đạo hữu và đồng hương niệm tình tha thứ.

Nhà tu phải nên làm gương (Pham Dao dịch)

Victor Ifedi. The Guardian. Thứ Bảy ngày 22 tháng 8, 2009.

Thầy tu là những người truyền giáo. Thuở xưa, các tổ du hành khắp nơi để truyền đạt những chân lý tôn giáo xuyên qua những hành lang đường bộ và vượt qua những dòng sông. Tôn giáo của họ khác nhau, từ Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Phật Giáo, Shinto giáo, Ấn giáo, và các tôn giáo khác. Họ đã cảm hoá nhiều người và đã thu hút một số tín đồ đông đúc. Ngày nay, nền văn minh đã làm biến chất rất nhiều nhà tu hành. Con số của những người này cũng gia tăng gấp bội.

Với sự gia tăng của các thầy tu, những người hoài nghi đã nêu ra những nỗi lo sợ chính đáng. Một tổng giám mục gần đây đã phàn nàn rằng một số thầy tu là những kẻ cướp giựt. Ngài kết án những người truyền đạo đó đang lợi dụng đạo tràng của họ và làm tiền bằng sự giả dối ngụy tạo. Họ dựng nên những cuộc viễn chinh tôn giáo, giảng những bài thuyết pháp mập mờ và biểu diễn những phép mầu dối trá. Một nhân vật nổi tiếng mang danh Chúa đã biểu diễn các phép lạ trên truyền hình.

Chủ nghĩa vật chất dường như đã tước đoạt các thực hành tôn giáo. Nghe nói một thầy tu nổi tiếng gần đây đã mua một chiếc phi cơ. Một số thầy tu chưng bày những gia sản đồ sộ, lái những chiếc xe kiểu mẫu tân thời và đang xây cất những toà lâu đài. Nguồn gốc của những gia tài khổng lồ như vậy đã tạo ra một cơn bão tuyết của những câu chuyện tầm phào. Càng ngày càng nhiều vị lãnh đạo nhà thờ và chùa chiền cho người ta một ấn tượng rằng họ là những lái thương nắm giữ tài sản của chùa chứ không phải đạo tràng. Bây giờ gia đình sở hữu chùa chiền và nhà thờ. Các thành viên hoàn toàn bị loại trừ.

Chúng ta cần một dòng dõi mới của các thầy tu - những người sẽ là những nhà truyền đạo cao quý và những tấm gương sáng trong xã hội. Việc đào tạo thầy tu trong những tu viện cũng nên được chỉnh đốn lại. Một cơ chế giám định phải được thiết lập để ngăn ngừa sự nảy nở của những tổ chức tôn giáo. Chính quyền phải chú ý tối đa đến việc gầy dựng công ăn việc làm cho các học sinh ra trường để tránh sự ồ ạt làm nghề thầy tu bởi những người nhìn thấy đó là cách cuối cùng thật sự để tồn tại.

Đại Vệ văn minh chí dị - Giáp Văn

Thứ năm, ngày 30 tháng tư năm 2009
Đại Vệ văn minh chí dị (1)



(Lấy cảm hứng từ Đại Vệ chí dị của Người Buôn Gió)

Giáp Văn


Lại nói, sau khi tể tướng nước Vệ đi rồi, Đào Vương là vua nước Tề mới quay sang nói với cận thần:

-Nước Vệ tuy nhỏ nhưng ngoan cố kiên cường. Tiên đế đã bao phen mang quân chinh phạt, mấy nghìn năm rồi mà việc vẫn chưa xong. Xét theo sử sách, thì nước này Bắc giáp Động Đình, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Nam Hải. Trải qua mấy nghìn năm, nước Tề ta đã thu phục gần hết, chỉ còn lại phần nhỏ ở phía Nam. Nhưng cứ vài trăm năm, lại có kẻ dấy binh nổi loạn đòi cố quốc. Trước có chị em nhà Trưng Trắc, Trưng Nhị đánh lên Tượng Quận. Sau lại có bọn Tây Sơn đòi lưỡng Quảng, đòi cả công chúa. Sở dĩ như vậy là do văn minh nước Vệ độc đáo, hun đúc kết tinh truyền từ đời này sang đời khác.

Tể tướng nước Tề là Bảo, thấy vậy mới thưa rằng:

-Ngay đến cả quốc bảo của chúng ta như Kinh Dịch, Lạc Thư Hà Đồ, cũng có kẻ xấu miệng nói rằng xuất xứ là từ nước Vệ. Xem thế đủ biết, văn minh nước ấy thâm sâu khôn lường.

Đào Vương thấy vậy liền nói tiếp:

-Dân xứ ấy, bất kể đàn ông hay đàn bà, cũng anh dũng khác thường. Nhớ lại năm xưa, Thị Trinh nổi loạn, Lục tiên sinh mang quân đánh dẹp sáu tháng không xong, sau phải sai quân sĩ tụt quần diễu võ. Trinh thấy thế xấu hổ rút lui nên Lục tiên sinh mới có cơ bình phạt. Cho nên, muốn thu phục, vạn bất đắc dĩ mới phải dụng binh.

Cả hai trầm ngâm suy tính, bất giác Đào Vương nói:

-Xưa tiên đế bình phạt nước Vệ, tuy chỉ cai trị chưa đến hai chục năm, nhưng đã kịp đốt sách diệt sĩ. Cái gì quí báu cũng kịp chở về nhà. Nhờ thế mà dân Vệ lung lay như cây mất gốc suốt mấy trăm năm. Nếu không, nước Tề ta khó mà được như bây giờ, ta với các ngươi có khi cũng không có mặt. Nay ta học theo người xưa, tàn sát văn hóa, thì nước Vệ tự nhiên suy yếu. Nguyện ước của tiên đế nhờ thế mà có cơ thực hiện.

Bảo tể tướng thấy thế liền hùa theo:

-Đại Vương nói chí lý. Mấy chục năm nay ta đã cho không phim ảnh, nên dân Vệ suốt ngày xem phim dã sử nước Tề, đến mức thuộc sử Tề hơn cả sử Vệ. Chưa kể, dân xứ ấy sau mấy chục năm loạn lạc đói khổ, giờ chỉ chăm chắm lo cái trước mắt mà không nghĩ đến chuyện lâu dài. Kể như mỗi khi ta mua móng trâu móng bò, mua ếch, rắn, mèo thì vài vụ sau nhất định mất mùa đói kém. Nên kế của Đại vương, nếu bỏ chút công của, lại nhằm vào lòng tham sân si của quan lại và dân chúng thì dễ thực hiện lắm.

-Vậy ngươi định tính sao? Đào Vương hỏi. Bảo liền nói tiếp:

-Nước Vệ có cái mỏ nhôm lớn, nằm ở cao nguyên, là nơi hiểm yếu chiến lược. Nay vì túng quẫn, triều đình nước Vệ đã nhờ Đại Vương giúp sức đào lên chia phần để bán. Vậy Đại Vương mượn cớ giúp đỡ, cử hai vạn quân xuất thân từ vùng nghèo khó, giả làm phu đào mỏ đi sang. Lại dẫn thêm vài nghìn người phục dịch, mang theo nhiều quần áo, băng đĩa karaoke, phim ảnh và năm trăm cân vàng. Nội trong ba năm, có thể xong đại sự.

Ngươi nói rõ hơn xem! Đào Vương gắt.

-Muôn tâu! Trải qua nghìn năm cai trị mà xứ ấy vẫn không bị Tề hóa, chung qui cũng chỉ tại cái lũy tre làng. Cái lũy tre ấy ngăn cách sinh hoạt của dân chúng với triều đình, nên văn hóa xứ Vệ mới tồn tại dai dẳng như vậy. Thì nay cái xứ cao nguyên kia cũng thế, ở vùng hẻo lánh cách biệt, dân chúng nam đóng khố, nữ mặc váy thêu, hát sử thi Đăm Săn, gõ cồng múa chiêng, rất đặc biệt. Mỗi khi có dạ hội liên hoan to nhỏ, lại mang những thứ ấy ra nhảy múa trình diễn...

-Ngươi dài dòng quá. Nói gọn ta nghe! Đào Vương sốt ruột gắt lớn.

-Thưa vâng! Nay ta mang nhiều quần áo sang phát không cho dân chúng, thì họ không đóng khố mặc váy nữa. Lại mang băng đĩa karaoke phim ảnh cho không, thì họ không hát sử thi nữa. Lại lấy năm trăm cân vàng, đúc thành cồng chiêng, rồi cho đổi một cồng chiêng đồng lấy một cồng chiêng vàng thì nhất định dân chúng sẽ mừng húm. Nhưng cồng vàng gõ không kêu, chiêng vàng đánh không ra tiếng, thì cái trò múa cồng múa chiêng tự nhiên chấm dứt. Dân chúng tham vàng, sẽ tự đánh giết lẫn nhau, văn minh vùng ấy tự nhiên bị diệt.

-Hay! Đào Vương vỗ đùi đánh đét một cái, rồi hỏi:

-Còn gì nữa không?

Bảo thấy vậy, vui mừng ra mặt, tâu tiếp:

-Hai vạn quân sĩ sẽ cho kết hôn với người bản địa. Bọn này ở nhà không lấy được vợ, có cơ làm loạn. Nay cho sang bên ấy tiện cả đôi đường. Còn bọn phục dịch sẽ cho mở nhà hàng ăn uống giải trí, bán các món ăn Tề, hát các bài hát Tề. Sau ba năm, sẽ có hai vạn Tề con, lại có thêm một cái Tề-thao ở đó. Vậy coi như có một nước Tề nhỏ trong lòng nước Vệ. Lúc ấy, đại sự hà cớ gì lại không thành!

-Còn gì nữa không? Nếu không, tiến hành ngay lập tức! Đào Vương phấn khích đến độ không giữ được bình tĩnh. Thấy vậy, Bảo càng vui hơn, dõng dạc tâu tiếp:

-Muôn tâu! Khi khai mỏ rửa quặng, ta bí mật đổ thêm chút thuốc độc. Thuốc này theo đường sông suối mà chảy về xuôi. Nước sông nước giếng, tôm cua cá, lúa gạo cấy trồng, trâu bò lợn gà, kể cả người dân uống nước, đều sẽ bị nhiễm độc. Lúc ấy dân chúng sức khỏe suy yếu, tinh thần bạc nhược, lại suốt ngày xem phim Tề, mặc quần áo Tề, ăn món ăn Tề, vui chơi hú hí ở Tề-thao, thì sức đâu mà kháng cự. Muôn tâu bệ hạ! Cái này là bất chiến tự nhiên thành. Hoặc giả, một trận gió to là bay sạch...

-Diệu kế! Quả là diệu kế! Phen này ta một tên trúng năm sáu đích. Ước nguyện của tiên đế có cơ thành hiện thực!

Đào Vương phấn khích cùng cực, ngồi nhổm hẳn lên ngai vàng, mắt sáng rực, quát lớn:

-Bay đâu! Y kế thi hành!

Quần thần dạ ran rồi lui ra, bàn bạc cắt cử việc mang người mang của đi sang nước Vệ.

Liverpool, 30/4/09.


(Còn nữa)

Đại Vệ văn minh chí dị (2)

Đại Vệ văn minh chí dị (3)

Lại nói, triều đình nước Vệ nghe tin Tề Bá Vương mang người mang của sang giúp việc bóc đất khai mỏ thì mừng lắm, liền mở cuộc họp báo rao tướng lên rằng phen này nước Vệ sắp giàu rồi! Vệ ta sắp có thêm khoản tiền to để bỏ vào ngân khố rồi!

Có vị võ tướng, vốn là khai quốc công thần, tuổi tuy đã gần trăm nhưng mắt vẫn tinh anh, nhìn rõ dã tâm của Tề Bá Vương, nhưng sợ lòng dân vọng động, nên hai lần bí mật dâng biểu can ngăn. Triều đình tuy có tiếp biểu, nhưng giấu biệt tăm không cho dân chúng biết. May có kẻ nhanh tay nhanh mắt, lại có lòng với nước với dân, nửa đêm lẻn vào phủ Tể tướng chép lại, mang ra phát tán tứ phương. Dân nước Vệ nhờ thế đọc được, mới biết cái họa diệt vong đã ở sát sau lưng. Trong nhà ngoài ngõ, nam phụ lão ấu, ai ai cũng lo lắng mất ăn mất ngủ. Mấy tay mõ làng cũng không đứng ngoài cuộc, ngày đêm rao giảng chuyện nước Tề sắp mang quân sang khai mỏ nước Vệ. Chưa bao giờ tình hình Vệ quốc lại căng thẳng trầm trọng đến như vậy.

Thế nên, các vị bô lão cùng các sĩ phu nước Vệ mới tính chuyện tổ chức hội nghị Diên Hồng, phân tích thiệt hơn để soạn biểu can gián triều đình. Có vị tuổi già sức yếu, cũng không ngại đường xa, cưỡi lừa bất kể ngày đêm đi hơn trăm dặm có mặt đúng giờ. Có vị sức tàn lực kiệt, cũng ngồi lên võng bảo con cháu khiêng đi. Các bậc danh sĩ khoa bảng, vốn người nước Vệ nhưng đang sinh sống làm ăn thuyết giảng ở các nước Mẩy, Ngố, Nhất, Phù, Đủ, Tấn, Tất, Tần, Tật... cũng thu xếp trở về. Nội trong dăm chục năm trở lại đây, chưa có khi nào người nước Vệ lại cần kíp và đồng lòng như vậy.

Những tay trẻ tuổi không được tham dự hội nghị, thì xin ký tên điểm chỉ tỏ lòng hưởng ứng. Để thêm bằng cớ, có kẻ còn vào tận xứ cao nguyên ghi ảnh chụp hình. Kẻ có chút học thức, lại thạo nghề khai mỏ, thì ngồi tính toán chi li xem việc bóc đất rửa quặng lời lỗ bao nhiêu thiệt hại thế nào. Tất cả mới ngã bổ chửng ra rằng, nếu không tàn phá thiên nhiên cây cỏ, đầu độc sông suối thì phần lỗ là cầm chắc trong tay. Nên hội nghị lại càng đồng tâm nhất trí. Nhất hô vạn ứng, nội trong ba ngày, có đến mấy nghìn người xin tham gia soạn biểu ký tên can gián triều đình. Danh sách quá dài, giấy không đủ viết, các bô lão mới đành lựa lấy hơn trăm người, phần nhiều là các vị chức cao vọng trọng, cùng các sĩ phu khoa bảng đã thành danh, định ngày lành giờ tốt, đồng tâm soạn biểu dâng lên triều đình nước Vệ.

Rồi ngày ấy giờ ấy, tất cả xa gần họp mặt, tắm nước thơm, đốt trầm hương soạn biểu. Kể rõ sự tình, nói rõ cái nguy trước mắt, cái khốn lâu dài, lại thêm mười điều thua lẽ thiệt:

Việc không cần thiết, chớ nhọc sức dân

Không giúp việc làm, không thêm ngân khố

Đường xa cách trở, vận chuyển làm sao

Thiếu nuớc trên cao, thiếu điện chạy máy

Hại cỏ hại cây, hại người hại vật

Hiểm yếu chiến lược, không thể bỏ qua

Rước hổ về nhà, ngoại bang xâm nhập

Văn minh suy kiệt, Vệ tộc diệt vong

Một lần sẩy chân, muôn đời nô lệ...

Biểu soạn xong, sao thành ba bản, lại thành kính thắp hương khấn Quốc tổ Quốc mẫu, cầu Người phù hộ độ trì cho con dân nước Vệ qua cơn nguy khốn, rồi nhằm phòng Vụ quốc, phủ Tể tướng và điện Vệ Vương thẳng tiến.

Bô lão đi trước, chí sĩ đi sau, xếp thành hai hàng, áo the khăn đóng... Chưa bao giờ việc dâng biểu lại diễn ra long trọng như vậy.

Đến phòng Vụ quốc, biểu được dâng lên, đón tiếp trọng thị. Bô lão nghẹn lời, chí sĩ rơi nước mắt. Nhờ hồng phúc tổ tiên, nước Vệ ta sắp được cứu rồi!

Trời cao đất thấp, gió mát hiu hiu, lòng người hớn hở, cả đoàn lại chỉnh đốn hàng ngũ, sửa sang y phục, tiến sang phủ Tể tướng và điện Vệ Vương. Thì hỡi ôi, phủ và điện xưa nay không có thói quen nhận biểu tận tay. Muốn gửi gì trình gì, phải qua nhà mõ.

Ừ thì nhà mõ! Vận nước làm trọng, khó nhọc lúc này kể đến làm chi. Nhà mõ cạnh đây, nói khó một tí thì mõ chuyển...

Trong nhà ngoài ngõ, nam phụ lão ấu lại khấp khởi mừng thầm. Biểu đã dâng lên, thấu tình đạt lý, lẽ nào triều đình không xem xét.

Rồi cũng đến ngày đến tháng, thỏa niềm mong mỏi muôn dân, công chiếu ban ra, ngắn gọn súc tích: Khai mỏ nguyên cao là chưởng tru lớn của đình triều. Bán cầm!

Dân chúng chết đứng. Chí sĩ chết ngồi. Các vị bô lão nước mắt hai hàng, xót không thể tả.


(còn nữa)

Lại kể, sau khi nhận biểu nhà mõ đưa lên, Vệ Vương cùng Tể tướng mất ăn mất ngủ. Làm Vương làm Tướng, chữ tín phải đội lên đầu. Đã nhận lời với người Tề, lại ký kết hiệp ước liên minh tương hỗ, thì làm sao thoái thác được đây. Ngộ nhỡ sau này có biến, thì ai trông ai giúp.

Có kẻ đa mưu túc trí, tên gọi Tôn Dưa, mới hiến kế rằng:

-Để xảy ra cơ sự này, tội đầu là tội cái thư của tay võ tướng. Sau đấy là bọn mõ làng tiếp tay phổ biến lung tung. Nay thu hồi cấm tiệt, bịt mồm bịt miệng, thì triều đình làm gì nghĩ, dân tình ai biết đấy là đâu.

Triều đình nước Vệ cho rằng chí lý, nên soạn chiếu ban ra: “Từ nay trở đi, những gì là chưởng tru lớn của đình triều, thì cấm bàn cấm đưa tin cấm trình lên Vụ quốc. Quần thần nước Vệ toàn những tay anh kiệt trị giá triệu đô, sẽ lo hết tính hết lên kế hoạch hết, dân chúng không phải nhọc lòng. Ai vi phạm sẽ xử theo luật đình triều nước Vệ”.

Dân Vệ thấy vậy sợ xanh mắt. Những tay có chút máu mặt thì thậm thụt bàn tán với nhau. Bàn rằng:

-Khai mỏ lần này là cầm chắc cái lỗ trong tay. Nhớ lại mươi năm về trước, phủ phủ vay tiền mua lò kéo mật của nước Tề, chưa được nửa năm thì vứt không bỏ đấy, mới thấy dân lỗ thì mặc kệ dân, chứ nhà quan đâu cần biết tới...

Có kẻ thạo tin lại nói thêm vào:

-Luật bất thành văn, mỗi khi mua sắm bằng tiền công khố, mười phần trăm bỏ túi nhà quan. Nên dân lỗ thì có thể, chứ nhà quan có lỗ bao giờ. Cùng lắm, lại bắt dân đóng thuế...

Có kẻ suy nghĩ sâu xa hơn chuyện đồng tiền nén bạc, than rằng:

-Nay nước Tề mang người mang của sang đây, lại lưu trú tại vùng hiểm yếu. Người Vệ ta duy cảm duy tình, thật thà như đếm, ngộ nhỡ có biến, thì làm sao đấu được với người Tề mưu mô xảo quyệt, nghìn năm phá quách đánh thành...

Có kẻ đi xa mở mang hiểu biết, cũng góp chuyện bàn thêm:

-Xưa nay người Tề đi đến đâu là văn hóa Tề đi theo đến đó. Sở dĩ cái nước Ít-xờ-ren nghìn năm phiêu bạt mà không bị diệt là nhờ giữ được văn hóa. Nay triều đình tiếp tay cho Tề quốc tàn sát văn minh thì nước Vệ ta sắp nguy rồi...

Kẻ thông thạo sử sách cũng thầm thì góp chuyện:

-Nước Tề ngày càng phình to, nay người Tề lại nói rằng bản đồ nước Tề hình con gà trống, mà nước Vệ ta là cái chân của nó...

Rồi lại có kẻ trầm ngâm, ra chiều hồi tưởng chuyện xưa:

-Nhớ ngày nào Đào Vương sang Vệ quốc, tiếng là sang chơi mà thực chất vi hành. Nhà cao cửa rộng không ở, nước nóng khách sạn không tắm, giữa hôm trời lạnh, lại giở trò xuống Đông Hải tắm chơi. Xem thế đủ biết, ý tứ rằng đây ao ta thì ta tắm...

Lại có kẻ thông thuộc sử sách bên Tây thuận miệng đế thêm:

-Bóc đất khai mỏ chẳng qua là kế ngựa gỗ thành Troy. Việc này đến trẻ con cũng biết. Triều đình Vệ quốc toàn tay anh kiệt trị giá triệu đô, sao lại không nhìn ra cơ chứ...

Cũng có kẻ giật mình nghĩ đến chuyện Trọng Thủy Mị Châu, mất nước hại thân chẳng qua cũng vì tin người Tề quốc...

Trong nhà ngoài ngõ, nam phụ lão ấu, lại đứng ngồi không yên, bàn tán xôn xao.

Nói chung, từ ngày có công chiếu ban ra, nước Vệ nhân tâm phân tán, nhân tình thảng thốt. Chuyện nước Vệ còn hay mất, chuyện bóc đất khai mỏ hậu quả ra sao, nguy hại thế nào... phải nói là rối như canh hẹ.

Các vị bô lão cùng các sĩ phu nước Vệ lại đồng tâm soạn biểu dâng lên lần nữa. Nhưng trước sau như một, triều đình nước Vệ vẫn chỉ một câu như đinh đóng cột: Khai mỏ nguyên cao là chưởng tru lớn của đình triều. Bán cầm!

Đến lần dâng biểu thứ ba, triều đình hết kiên nhẫn, nên mới tính kế mạnh tay. Kẻ đa mưu túc kế hôm trước lại được dịp tâu rằng:

-Trên đời có những cái sợ mà ai ai cũng sợ. Đám bô lão sĩ phu này xem ra chưa biết sợ là gì. Nên trước hết phải làm cho họ sợ!

Rồi sau lại có kẻ tâu thêm:

-Bách tính bàn tán xôn xao là do xưa nay ta giấu. Nay cần làm cho họ rõ. Còn rõ thế nào, thần đã có chủ trương.

Quần thần bàn tính hồi lâu, cuối cùng cũng tìm ra bài đối phó:

Đầu tiên là cho tay họ Chí tên Phèo ra chửi đổng vài câu. Nói rằng các bô lão chẳng qua chỉ là phường trẻ con bịa đặt dễ kích động. Còn chí sĩ trong ngoài nước Vệ cũng chỉ là đám hóng hớt nói leo thiếu cơ sở. Bọn đi theo cũng chỉ là phường vô trách nhiệm tát nước theo mưa. Sau đấy lại cho bộ Công ra họp báo giải trình, đại ý nói rằng những điều tay Chí kia nói đều hoàn toàn chính xác. Không tin thì xem đây. Nói rồi chìa thông cáo.

Thông cáo đưa ra, dân chúng mắt tròn mắt dẹt. Người có chút học thức thì ôm mặt khóc hu hu. Thông cáo triều đình gì mà sai chính tả tùm lum be bét. Đầu tóc phơ phơ, các bô lão lại nhìn nhau rưng rức. Nước Vệ ta phen này nguy thật rồi!

Về phần triều đình nước Vệ, vẫn nhất nhất kế hoạch cho người Tề khai mỏ rửa quặng. Làm Vương làm Tướng, chữ tín phải đội lên đầu, làm sao sai được.

(còn nữa)

Chính Danh - Sĩ Tỉnh - Ha Uy Di 2008

[Chìa Khóa Cuộc Tranh Đấu Của Người Việt]



A. Học Thuyết.



Cách đây 2, 500 năm, nhà đại hiền triết Trung Hoa là Khổng Tử chu du thiên hạ, lưu lạc khắp nơi mong bình định các nước đang lâm chiến trong Thời Chiến Quốc. Ngài không có binh hùng tướng mạnh, không có vàng bạc châu báo, vậy mà ảnh hưởng của ngài bao trùm thiên hạ. Các đệ tử hỏi ngài làm sao Thầy tay không mà mong chi phối các vua quan, võ tướng, chính khách. Khổng Tử điềm nhiên trả lời: “Ta Dùng Chính Danh”. Các đệ tử ngơ ngác hỏi Chính Danh là gì, Thầy Khổng Tử nói vỏn vẹn “Gọi Đúng Sự Việc, Nghĩ Đúng Và Làm Đúng”. Đi đâu nhà hiền triết họ Khổng cũng đem “Chính Danh” ra thuyết giảng và áp dụng vào việc làm. Các triết gia thời đó công nhận rằng “Chính Danh” là học thuyết thực tiễn, hiệu quả, và có đủ sức bình định thiên hạ.



Suốt lịch sử mấy ngàn năm qua, thuyết Chính Danh vẫn còn đó, vẫn được một số Chính Trị gia đem ra thực hành, nhưng số người kiên nhẫn thì ít, khi chưa thấy hiệu quả nhiều người đã ngã lòng bỏ cuộc. Những người theo Võ Đạo thì cho rằng Chính Danh là học thuyết không thực tế, phải dùng tới sức mạnh của kiếm cung mới đổi được thời cuộc. Một số khác đánh giá Chính Danh là mơ hồ, không tưởng, không thể áp dụng vào thời buổi nhiễu nhương của thế kỷ mới, có lẽ trước đây vào thời sơ khai thì Chính Danh có hiệu lực, nhưng bây giờ học thuyết đó chỉ nói để chơi chứ không thể đem ra để Trị Quốc An Dân. Cũng có một số khác, kiên trì hơn, suốt đời theo đuổi Chính Danh trên con đường Lập Nghiệp, Tu Thân, Tề Gia và Trị Quốc, tuy có thành công phần nào nhưng vì thiểu số đạo đức bị chìm vào một đa số gian manh, bất chính, xã hội vẫn xáo trộn, bất an.



Ở bối cảnh xã hội Việt Nam trước đây, Chính Danh vẫn là một học thuyết đặt căn bản vào đạo lý, dùng lương tâm làm ngọn đuốc soi đường đưa người làm Chính Trị tới mục đích Tề Gia, Trị Quốc. Con Người Chính Danh, thấm nhuần Khổng Giáo, từng lãnh đạo đất nước chúng ta qua 9 năm giông bão là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã thành công đưa Chính Danh vào Quốc Sách trên mọi mặt Chính Trị, Xã Hội, Kinh Tế, Giáo Dục. Ông nâng Tứ Thư, Ngũ Kinh, tôn sùng đạo lý, chủ trương trị quốc, an dân bằng đường lối Nhân Trị thay vì Pháp Trị hay Bạo Lực Trị. Những sai trái mà người ta gán cho chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa thực ra là những lời cáo buộc dồn vào đám Đồ Đệ “Cần Lao” dưới Thời Tổng Thống Diệm chứ không phải những việc làm trực tiếp do ông chủ trương. Chính Danh là con đường đưa TT Diệm từ một hưu quan đi tới vai trò lãnh đạo, để từ đó đưa ông Tu Thân, Tề Gia, và Trị Quốc. Lịch sử đã đánh giá những năm cầm quyền của TT Diệm chính là bài thực dụng của Chính Danh, tuy có thành công trên mặt Tu Thân và Trị Quốc, nhưng có thể đã khiếm khuyết về Tề Gia mà đưa đến thảm bại.



Những guồng máy Chính Trị kế vị TT Diệm sau khi ông bị hạ sát có áp dụng Chính Danh hay không trong việc cai trị Miền Nam, giờ đây ai cũng lượng định bằng cách so sánh các nhà Chính Trị sau năm 1963 với người tiền nhiệm. Có những người cố mang thuyết Chính Danh vào việc làm nhưng không thành công vì trong lương tâm họ không có Chính Danh. Một số khác đôi lúc muốn chứng tỏ mình có Chính Danh để cầm quyền, nhưng cuối cùng vẫn để lộ một bộ mặt thiếu Chính Danh, thiếu Đạo Đức. Tuy vậy, những nhà cai trị Miền Nam từ 1963 tới ngày mất Miền Nam vào tay Cộng Sản vẫn không ai bị buộc tội là theo chính sách Bạo Lực Trị như nhóm cầm đầu Miền Bắc, những kẻ mà lịch sử không phải chờ lâu vẫn có thể kết án là Không Có Chính Danh, Vô Đạo Đức, Bất Chính và Bất Nhân. Đối với Cộng Sản dù ở Nga, ở Tàu, ở Cam Bốt hay ở Việt Nam, học thuyết Chính Danh không có chổ đứng, vì căn bản của Chính Danh là đạo lý, mà nếu không có đạo lý thì làm sao có Chính Danh? Vì không có Đạo Đức và không có Chính Danh mà Cam Bốt phải chịu cuộc tàn sát khủng khiếp nhất trong lịch sử của nhân loại tù 1975 tới 1979.



B. Hiện Tượng.



Người Việt Quốc Gia, sau cơn Hồng Thủy 1975, đã nhận ra rằng dù nghèo khổ, dù vất vả, dù lo âu, dù phải đương đầu với trăm ngàn cơ cực, cuộc sống Miền Nam trước 1975 vẫn còn tự do cho họ thở, cho họ nói, cho họ sống tự do, khác với cuộc sống của người dân Miền Bắc trong gông cùm Cộng Sản từ năm 1954. Hệ luận đó đã đưa chúng ta tới những kết luận khác trong suy tư Chính Trị rằng, dù có bất mãn với chế độ Miền Nam trước đây, cuộc sống Miền Nam vẫn hơn cuộc sống ở Bắc Việt. Ông Diệm, Ông Thiệu dù có xấu đến đâu cũng không tệ bằng Hồ Chí Minh, và người Lính Miền Nam dù có tệ đến đâu cũng không ác bằng thằng Lính Nón Cối. Khi biết được điều đó thì đã muộn, gần hai triệu Người Việt nhận được bài học chân lý đó sau khi nếm mùi Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa hoặc đã Bị Nướng 9, 10+ Năm Trong Trại Tù. Lúc đó người Miền Nam mới hiểu ra rằng các chế độ Miền Nam đã có Đạo Đức, có Chính Danh, dù không trọn vẹn.



Khi ra khỏi nước, sống một thời gian ở xứ người và làm quen với tình trạng vật chất, con Người Việt Nam thay đổi từ bên ngoài vào đến bên trong, từ diện mạo cho tới tư tưởng, và xa dần căn bản Chính Danh của luân lý Đông Phương. Người ta cho rằng Chính Danh không đem lại cơm áo, xe hơi, nhà mới. Người Việt bác bỏ Chính Danh và những nguyên tắc đạo lý căn bản để tập cho mình một “mác” mới về xã hội, về công danh, về đường lối suy tư. Một số quên rằng mình đã một thời sinh ra ở đất Việt, uống nước từ dòng sông Việt, ăn cơm từ cánh đồng Việt Nam, và tiếng khóc chào đời là tiếng Việt Nam. Đánh mất Chính Danh, họ đánh mất luôn đạo lý cổ truyền, để hồ hởi lột xác mình cho hết dấu vết Việt Nam, mong mình làm một người Mỹ, một người Pháp, một người Anh qua tên tuổi mới, quốc tịch mới, và một linh hồn lai căng mới Tất cả những suy tư trên đây đã được biểu lộ ra trên phương diện cá nhân, xã hội, Chính Trị và cả linh hồn.



1. Chính Danh Cá Nhân:

Chính Danh cá nhân nằm trong tên người, chúng ta mang từ lúc cha sanh mẹ đẻ. Tên người là một thứ căn cước cá nhân mang giòng máu huyết của giòng họ, của bộ tộc, của quê quán, của những hoài bảo ước mơ gia đình. Khi sinh ra, cha mẹ, ông bà mong con cháu đạt những thành quả được gói ghém trong tên khai sanh. Chúng ta không cần phải diễn nghĩa thêm ở đây, vì tên Việt Nam nào cũng có họ hay tên tộc, tiếp theo là tên đệm để bổ nghĩa cho tên riêng, họp lại thành một tên kép chứa đựng hy vọng của mẹ cha. Tên Việt Nam xuất xứ từ Văn Chương, có thể là Văn Chương Việt Hán, trong khi tên Anh ngữ, Pháp ngữ xuất xứ từ thánh kinh, có điển tích nhung không có ý nghĩa gì. Người Việt ra nước ngoài nhiều khi vì vọng ngoại mà thay tên mình bằng tên Mỹ, tên Pháp, và có người còn Vọng Ngoại đến độ thay đổi cả họ hay tên tộc, lấy cớ rằng cần đổi mới hay cho dễ đọc. Đây là những lý do ấu trĩ và thiếu Chính Danh, tự đồng hóa mình với những người sinh ra ở một phần đất khác không có đạo lý giống mình. Nhiều cha mẹ đã mắc phải lỗi lầm là chìu con cái khai tên trẻ sơ sinh bằng tên Mỹ hay đổi tên con khi nhập tịch, đẩy con cái vào Văn Hóa xa lạ và mất gốc, tưởng như vậy là Cấp Tiến.



Một số người khác, mắc Bệnh Vọng Ngoại, thường ghi tên mình theo lối Việt nhưng ký tên theo lối Mỹ, tạo một thứ Lai Căng Không Ra Voi, Không Ra Chuột. Đây là một số người mang tư cách lãnh đạo Tập Thể hay có thành tích tranh đấu và hướng dẫn Người Việt, nhưng tự đánh mất giá trị Đạo Đức và Chính Danh, đưa đến tình trạng người ký khác với người được ghi tên trong tin tức hay tài liệu. Không biết những Nhà Lãnh Đạo này, muốn ký tên theo Lối “Lai”, có đủ Đạo Đức để lãnh đạo người khác hay không, khi tên ông viết khác, chữ ông ký khác. Ở Miền Tây, lãnh tụ Hồ Anh Tuấn mang chữ ký là Tuấn Anh Hồ. Ở Miền Đông, Ông Nguyễn Mậu Trinh ký tên Trịnh Mâu Nguyễn. Hai vị này là lãnh tụ, có tên đăng khá thường xuyên trên báo chí, đồng bào biết nhiều, nhưng hai ông không nhận mình là Người Việt thì hai ông lãnh đạo ai? Có thể ông sẽ nói là người Mỹ ký như vậy. Vâng, Mỹ nó ký như vậy, ông là Người Việt thì cứ ký theo lối Người Việt được không? Và người Mỹ không có luật nào bắt buộc ông phải ký theo lối của họ.



Về Chính Danh Cá Nhân, chúng ta phải thắc mắc tại sao rất nhiều báo chí Việt, đăng tin cho Người Việt đọc, quảng cáo cho Người Việt mua, mà cứ phải đăng tên các chuyên viên Bảo Hiểm, Địa ốc, Thẩm Mỹ theo lối Mỹ? Người Mỹ đâu biết tới mấy ông bà mà ông bà cứ phải khai là Jane Tran, Peter Vo, Jennifer Lam, Scott Nguyen .... Quý Vị đăng quảng cáo Quý Vị là chuyên viên Việt Nam phục vụ Người Việt tận tâm như Quý Vị nói trong quảng cáo. Nếu Quý Vị đăng tên là Trần Kim Dung, Võ Phúc, Lâm Kim Tuyết, Nguyễn Ngọc Chung ... thì chắc chắn khách hàng Việt Nam tin tưởng vào sự phục vụ của Quý Vị hơn.



Về phương diện Chính Danh Cá Nhân, người viết xin tỏ lòng ngưỡng mộ giới y sĩ Việt Nam đã nêu gương sáng cho các giới khác khi Quý Vị ghi tên trên bảng quảng cáo y nguyên theo lối Việt. BS Phạm Hoàng Trung, ĐYS Dương Lai Cảnh, BS Hồ Tấn Phước, Nha sĩ Phạm Thị Thanh v.v…. Có vị còn ghi thêm dưới tên mình “Nguyên y sĩ Sư Đoàn ..., nguyên nha sĩ Bệnh viện ...” thật dễ thương và đáng thán phục hơn nữa là nhiều vị y sĩ mang tên rất mộc mạc, hoàn toàn Việt Nam, vẫn đăng đầy đủ như hồi con trong nước. Họ phục vụ bệnh nhân Việt, việc gì phải mang mầu sắc Mỹ Hóa, do đó các bệnh nhân rất thương mến, và đối với họ việc quảng cáo “Bác Sĩ Việt Phục Vụ Người Việt” là thừa.



2. Chính Danh Tập Thể:

Bước chân ồ ạt của hơn một triệu Người Việt tới Hoa Kỳ đã tạo nên một cảnh “Tạp Pí Lù” Đoàn Thể, Hiệp Hội, Tổ Chức, Cơ Quan Cộng Đồng, kể tất cả phải lên tới con số hàng ngàn, nhưng không ai giống ai, không hội nào thuộc về hội nào hay có liên hệ với một tổ chức nào. Một số hội không mệnh danh là hội mà lấy tên là “Gia Đình” cho vừa lạ vừa có vẽ thân thuộc. Một số tổ chức mang tên đầy lịch sử mà chỉ làm công tác ái hữu. Bên trên các hội, các nhóm, các đoàn lại mọc ra một số “Hội Nghị” hay “Nghị Hội”, Phong Trào, Mặt Trận, Chiến Dịch, rồi lại thêm một số Chính Phủ, Hội Đồng rập khuôn theo công thức chính quyền hồi còn ở trong nước. Hầu hết các tổ chức mang tên rất lớn, hoạt động một thời gian rồi “Ngủm” không kèn không trống và cũng chẳng ai thắc mắc hay đi đám tang. Tất cả chỉ là một Màn Kịch làm cho vui, Lấy Tiếng, và đôi khi Để Lấy Tiền.



Vì hầu hết các tổ chức Người Việt không có Chính Danh và không Định Hướng được mục tiêu, họ hoạt động lấy lệ, và rất tự hào. Niềm tự hào đó chỉ nằm trong Tự Ái, ai cũng muốn có một Hội Riêng mà mình làm Chủ Tịch chứ không muốn làm Phó cho một người khác để họ chỉ tay năm ngón. Ai cũng muốn có một danh xưng quan trọng để ký giấy tờ, mặc dù giấy tờ chỉ là mấy lá thư thăm hỏi nhau. Không Ông Chủ Tịch nào muốn đặt hội mình vào hệ thống một hội khác để làm việc cho hữu hiệu hơn, và càng lại không muốn hội mình mang cùng tên hội khác khi sáp nhập chung. Đây là bài toán thách đố mọi người làm Chính Trị thật sự, làm sao qui tụ được các hội vào một hệ thống, mang một danh xưng, chung một hướng đi, và chia một ngân sách. Hai mươi tám năm qua, chúng ta đã tự xé lẻ thành nhiều mảng nhỏ, yếu ớt rời rạc, chê bai nhau rất nặng lời. Bây giờ làm sao ghép lại hết thành một khối duy nhất để chung sức mạnh?



Chỉ riêng một danh xưng đã là vấn nạn không ai giải quyết được. Nếu tất cả mọi hội đều mang tên một danh xưng, thí dụ “Cộng Đồng Người Việt Tự Do”, “Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNTD” v.v... thì chúng ta mới biểu dương được sức mạnh của một tập thể gắn bó và đoàn kết. Hiện nay hiệp hội Việt Nam trên đất Mỹ, đất Pháp hay bất cứ một quốc gia nào có Người Tị Nạn cư ngụ là một rừng cây rậm rạp nhưng không có hoa, có trái, ai muốn “Ba Cây Chụm Lại Thành Hòn Núi Cao” quả là một việc đội đá vá trời. Gần ba thập niên qua, chưa ai làm được việc này kể cả mấy tổ chức tự xưng là “Nghị Hội Toàn Quốc” hay “Chính Phủ”. Nhiều người cho rằng càng nhiều hội càng tốt, điều đó có thể đúng khi nào nhiều hội mà cùng làm chung một việc, cùng mang chung một danh xưng, và cùng hướng về một mục tiêu. Tình trạng nhiều hội mà mỗi hội đi theo một hướng, chém vè nhau thì thật là vô vọng, chứng tỏ chúng ta không phải là một khối đồng nhất mà chỉ là một tập thể hỗn tạp, chia rẽ nặng nề. Do đó nhu cầu cấp bách hiện nay là làm sao để tất cả các tổ chức Người Việt Quốc Gia cùng mang một danh xưng và thống thuộc một hệ thống hàng dọc, có tôn tri trật tự, phục vụ một lý tưởng chung, chứ không thể phân tán hàng ngang một cách vô kỷ luật như hiện nay.



3. Chính Danh Văn Hóa:

Văn Hóa là sức sống của một Dân Tộc, với một nền tảng căn bản là truyền thống, ngôn ngữ, sinh hoạt, y phục, đồ ăn, cách sống và các định chế giáo dục, kinh tế, xã hội v.v.... Không có một tập thể nào mà không có Văn Hóa, và ngược lại không có một nền Văn Hóa nào không xuất phát từ một tập thể dù nhỏ, dù lớn. Điển hình cho Văn Hóa của bất cứ tập thể nào có lẽ nỗi bật nhất là ngôn ngữ, qua chữ viết, qua cách truyền thông, qua văn chương, báo chí và biểu tượng diễn đạt ý kiến và tư tưởng. Ngôn ngữ là chìa khóa chính để biểu lộ tâm tư, và cũng là chiếc xe chuyên chở những tâm tư ấy.



Việt ngữ, qua 4 thế kỷ từ ngày được phát minh, đã được kiện toàn và đạt tới mức tinh vi, huyền dịệu để làm một môi trường truyền đạt. Về cấu trúc, Việt ngữ có nhiều điểm tinh vi hơn các ngoại ngữ. Về âm thanh, Việt ngữ đứng trên mọi thứ tiếng khác nhờ hệ thống dấu mang một thứ hòa âm trong từng chữ mà không một ngôn ngữ nào trên thế giới có thể sánh được. Về từ ngữ, Việt ngữ có đầy đủ khả năng diễn tả mọi ý niệm dù phức tạp, dù trừu tượng. Về chuyên môn và kỹ thuật, Việt ngữ dựa vào danh từ Việt Hán để diễn tả mọi ý tưởng khoa học, toán học với đầy đủ chính xác. Thế mà, tới nay nhiều ngòi bút Việt ngữ vẫn coi thường Việt ngữ trong một mặc cảm tự ti rất buồn cười. Nhìn vào nhiều tờ báo, nhiều tài liệu, chúng ta vẫn thấy người viết dùng ngoại ngữ để diễn tả thay cho tiếng Việt, coi Việt ngữ như không đủ khả năng truyền Thông. Đây là một sai lầm lớn về Chính Danh Văn Hóa, khi người viết không coi trọng tiếng Việt mà chỉ coi trọng tiếng nước ngoài. Ngay đến lối viết tiếng Việt cũng đã bị pha trộn để thành lai căng, mất gốc.



Tại sao chúng ta đánh mất Chính Danh về Văn Hóa? Câu trả lời là một số Tác Giả, Phóng Viên, Ký Giả tới nay vẫn còn nghĩ tiếng Việt yếu kém, thiếu sâu sắc, thiếu hiệu lực diễn tả, cần phải có tiếng Pháp, tiếng Anh trợ lực. Một số khác có lẽ cho Pháp ngữ, Anh ngữ mới đủ sức diễn tả các ý niệm cao, các danh từ khó, vì tiếng Việt nông cạn, thô sơ. Họ lầm nghĩ rằng Anh, Pháp ngữ mới là ngôn ngữ của người trí thức học rộng biết nhiều, còn tiếng Việt là ngôn ngữ của giới bình dân hay người thất học. Không biết chúng ta có nên trách họ trọng người khinh mình, hay tội nghiệp họ vì bộ óc của họ lệch lạc vì vọng ngoại. Khi đọc một trang báo, thấy đầy rẫy tiếng Anh chua vào để diễn giải tiếng Việt, không ai không thấy bực mình, nhất là bài viết của một vài người trẻ, trong 1 trang có tới 20 tới 30 lần dùng Anh Ngữ. Nếu tác giả viết trên một tờ báo Việt tại sao phải cần tới ngoại ngữ? Nếu tác giả thích dùng ngoại ngữ thì tại sao không viết cả bài bằng ngoại ngữ và giao cho một tạp chí Anh ngữ đăng? Hơn 50 năm rồi mà ngày nay mấy bộ óc nô lệ vẫn còn sót lại, mà một số Người Việt vẫn không biết mình đang sĩ nhục tiếng mẹ đẻ vì tự đánh mất Chính Danh Văn Hóa.



Trên một bình diện khác, Chính Danh Văn Hóa đòi hỏi con người trung thành với các truyền thống tập tục của những thế hệ trước, trong đó có cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là một đề tài tranh cãi vì nó có liên hệ tới Chính Danh Chính Trị. Đúng vậy, con người mang Chính Danh Văn Hóa giữ lối sống gắn bó với tinh thần dân tộc cổ truyền, không ai bị ảnh hưởng vì những lý thuyết ngoại lai mệnh danh là ý thức hệ. Một Dân Tộc nặng Chính Danh Văn Hóa mãi mãi ràng buộc mình với lề lối sinh hoạt có lâu đời đã được chứng minh là giá trị tinh thần của Bộ Tộc hay Quốc Gia. Những kẻ đánh mất Chính Danh Văn Hóa thường chạy theo tư tưởng mới, lối sống mới, ý thức hệ mới, ngụy trang dưới chiêu bài “Cách Mạng Văn Hóa” hay “Cách Mạng Bạo Lực”.



4. Chính Danh Chính Trị:

Đây là đề tài sôi nổi nhất trong trường hợp Người Việt chúng ta, nhất là khi Chính Danh Chính Trị có phần nào trùng hợp với Chính Danh Văn Hóa.



Ở Việt Nam trước ngày 30/4/75, dân ta có Chính Danh Văn Hóa và Chính Danh Chính Trị, với những nét đặc thù của dân tộc tính, và một chính thể dựa trên căn bản Nhân Trị. Bắc Việt, kể từ 20/7/54, không hề có Chính Danh Văn Hóa mà cũng chẳng có Chính Danh Chính Trị, vì nhóm lãnh đạo Miền Bắc bỏ hầu hết những truyền thống của tổ tiên để quân sự hóa dân chúng phía Bắc Vĩ Tuyến 17, du nhập chủ thuyết Cộng Sản từ Nga và Trung Cộng để mê hoặc đàn cừu. Miền Nam, dưới chế độ tự do đầy đủ, sống với một guồng máy điều hành hoạt động trên luật pháp lấy chữ “Nhân” làm gốc để giáo huấn hơn là trừng phạt con người. Guồng máy đó chỉ thay đổi phần nào kể từ 1/1/60 khi cái Quái Thai do Hà Nội đẻ ra là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” ra đời, xé bỏ Hiệp Định Geneve để phá rối an ninh công cộng, đàn áp nông thôn, mong nuốt giải đất Miền Nam Vĩ Tuyến 17, và nuốt thật vào năm 1975. Đối với Cộng Sản, không cần Chính Danh Chính Trị mà chỉ cần cái gọi là “Đạo Đức Cách Mạng, Lấy Bạo Lực Và Gian Trá Làm Nồng Cốt”.



Nhưng Chính Danh Chính Trị là gì? Nó bắt nguồn từ Chính Danh Văn Hóa và nếu không có CHÍNH DANH Văn Hóa thì không có CHÍNH DANH Chính Trị. Hai ý niệm này song song với ý niệm “không có lửa thì không có khói”. Ở trường hợp Người Việt Lưu Vong, CHÍNH DANH Chính Trị đòi hỏi sự gắn bó với dân tộc tính, với chính thể tự do, với lập trường Quốc Gia Không Cộng Sản, và với danh nghĩa của Người Tị Nạn Cộng Sản. Muốn có CHÍNH DANH Chính Trị, chúng ta cần phân biệt giữa Quốc Gia và Cộng Sản, giữa Vàng với Đỏ, giữa Trắng với Đen, giữa Dân Tộc Tính và Đảng Tính, và quan trọng hơn hết, điều kiện cần phải có là Chính Danh Văn Hóa. Trong một tập thể hỗn tạp, phân tán như sắc dân Việt lưu vong như hiện nay, nhiều người không phân biệt đâu là Xanh đâu là Đỏ, không biết ai là Cộng Sản ai là Quốc Gia, không nhìn thấy đâu là Chính Danh đâu là ngụy danh, cứ nhắm mắt heo thời kiểu “Tới Đâu Hay Tới Đó”. Đây là một trạng thái đáng lo ngại, thường xảy ra trong những năm đầu của kỷ nguyên lưu vong, nhưng tưởng ba thập niên qua cũng là quá đủ để chúng ta ý thức lại vấn đề Chính Danh Chính Trị này:



a. Phân Biệt Vàng Đỏ: Bỏ nước ra đi, chúng ta có xác định được mình ở thế đứng nào không? Về Văn Hóa, chúng ta tự nhận là Người Việt, nhưng về Chính Trị, xác nhận thế là chưa đủ. Một Người Mỹ cứ nghĩ rằng mọi Người Việt đều giống nhau vì người nào cũng mũi tẹt, da vàng, nói tiếng Việt. Đây là điều ngộ nhận trong những bộ óc, con mắt mù lòa của Người Ngoại Quốc vì họ không biết ai là Người Việt theo Cộng Sản và ai là Người Việt Chống Cộng Sản. Bổn phận của chúng ta là phải xác nhận mình thuộc khối Người Việt nào, chú không thể chỉ nói tôi là Người Việt. Quý Vị là Người Việt Vàng hay Người Việt Đỏ. Quý Vị là Người Miền Nam Tị Nạn Chính Trị ở Nước Ngoài, hay Quý Vị là cán bộ Cộng Sản đi sang đây làm gián điệp. Trên ngực áo Quý Vị có đeo một Lá Cờ Vàng để tự xác định thế đứng Chính Danh Chính Trị của mình mà không cần giải thích? Xin Quý Vị nói với người ngoại qưốc nào hỏi, “Tôi là Công Dân Việt Nam Cộng Hòa, không phải là Người Việt Hà Nội” Một cách bình dân, xin Quý Vị nói với bạn bè Quý Vị (nếu là người sinh quán Bắc Việt) “Tôi là Bắc Kỳ 9 Nút, không phải loại Bắc Kỳ 2 Nút”. Như vậy Quý Vị mới nêu rõ được Chính Danh Chính Trị của Người Việt Quốc Gia.



b. Nhận Diện Màu Đỏ: Năm 1979, Đặng Tiểu Bình, muốn cứu Trung Hoa lục địa ra khỏi vòng cô lập của thế giới, đã đổi danh xưng Trung Cộng thành Trung Quốc qua câu nói rất hóm hỉnh: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Sau đó cả thế giới bị lừa, Trung Cộng vẫn là Trung Cộng, tôn thờ Mác/Lê Nin, nhưng du khách quốc tế đổ vào Trung Cộng để giúp kinh tế Trung Cộng sống lại sau mấy thập niên lụn bại vì bị thế giới lãng tránh. Người Việt nhẹ dạ cũng đã lầm, kể cả báo chí, các đài TV, phát thanh, gọi xứ Cộng Sản Tàu là Trung Quốc, nghe rất hiền lành và vô thưởng vô phạt. Cái tai hại là Trung Cộng dấu được cái đuôi đỏ để vồ tiền thế giới, và giờ đây thế giới vẫn đổ tiền vào Trung Cộng làm giàu cho kẻ thù vĩ đại đã tàn sát không biết bao nhiêu triệu người và đở đầu cho thằng Cộng Sản Đàn Em ở Hà Nội. Không có Trung Cộng thì làm sao Bắc Việt thành Cộng Sản và xâm chiếm Miền Nam? Thậm chí có cả Người Việt đem tiền vào thăm Trung Cộng để làm giàu cho kẻ thù. Quý Vị ơi, trên thế giới này không có nước nào là Trung Quốc, chỉ có Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan là đồng minh với VNCH trong cuộc chiến vừa qua, còn Trung Cộng là kẻ thù của VNCH. Vì nó mà VNCH bị khai tử. Quý Vị đem tiền vào giúp Trung Cộng thì Quý Vị còn Chính Danh Chính Trị không?



c. Thành Phố Ma: Báo chí Việt Ngữ khi loan tin tức ở trong nước, vẫn ngây thơ gọi Sài Gòn là “Thành Hồ”, tưởng như vậy là dí dõm hay hài hước. Có một số bài báo gọi đích danh Sài Gòn là TP/HCM vì theo bản tin từ VN gởi qua, đăng “Nguyên Con” một cách vô tội vạ. Thật ra đây là một điều tai hại khôn lường, giúp người đọc lâu dần quên rằng quê hương chúng ta vẫn nằm trong tay Cộng Sản và cho rằng Cộng Sản “Ngày Nay Khác Cộng Sản Ngày Xưa”. Những người viết bài đã phạm một lỗi lầm lớn là vi phạm Chính Danh Chính Trị, không hướng dẫn độc giả mà còn tiếp tay tuyên truyền cho một chế độ ma quỉ bên ngoài trông hiền lành nhưng bên trong độc ác, bạo tàn. Ở trong nước, Cộng Sản kê lưỡi dao vào cổ, người dân bắt buộc phải đổi tên Sài Gòn thành tên Con Cáo, nhưng ở đây, tại sao Quý Vị đánh mất lương tâm để tàn nhẫn gọi tên thành phố yêu quí của chúng ta là Thành Phố Ma? Một lần tôi đã nghe, trong một buổi lễ, vị linh mục đọc tên TP/HCM rồi sau đó, bị giáo dân chất vấn, biện luận rằng tên đó nằm trong chỉ thị của Tòa Thánh. Ôi Tòa Thánh nào bắt Quý Vị gọi Sài Gòn là Thành Phố Ma trên đất Mỹ này? Ở đây nếu Quý Vị cứ gọi Sài Gòn thì Tòa Thánh nào phạt Quý Vị không?



d. Tướng Của Ai: Người Việt ở Nước Ngoài rất vô tâm khi đề cập tới một số tên Cộng Sản Gộc, có tăm tiếng, không minh định rõ bọn này, dù phản tỉnh hay ngoan cố vẫn là Cộng Sản. Báo chí một đôi khi loan tin “Thủ Tướng Võ văn Kiệt, Trung Tướng Trần Độ, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, v.v...” coi như những tên này là thủ tướng, trung tướng, tổng bí thư của mình. Cách viết danh xưng hay nêu tên này rất quan trọng và khi nào mình chấp nhận nó người viết mới đặt chức vụ hay cấp bậc trước tên. Ngược lại, nó là Cộng Sản, Cấp Bậc hay Chức Vụ của nó chỉ là để phía sau, hay không cần nhắc tới. Một số báo chí Việt ngữ đã rất thận trọng và chính xác khi loan tin về Cộng Sản và đặc biệt không chấp nhận vai trò của những tên Cộng Sản này. Nhiều bản tin ghi “Trần Độ, Tướng CS”, “Thủ tướng CS Võ Văn Kiệt”, hay “Mai Văn Bằng, Đại sứ CSVN” v.v.... Điều này cho thấy người viết bản tin có Chính Danh Chính Trị, không chấp nhận Hệ Thống Cấp Bậc của CSVN khi viết tin. Trong khi đó một số báo chí khác vẫn nhập nhằng ghi chức vụ và cấp bậc của mấy tên Cộng Sản y hệt như khi loan tin tướng lãnh, viên chức chính phủ VNCH. Những người viết tin như vậy Coi Vàng Cũng Như Đỏ, CSVN cũng như chính thể VNCH, còn họ đứng giữa. Có thể họ không nhận thức được kỹ thuật viết tin để biểu lộ lập trường Chính Danh của mình.



e. Giải Phóng Hay Xâm Lăng: Tới nay, 28 năm qua, vẫn còn có người gọi ngày 30/4/75 là “Ngày Giải Phóng”. Không biết những người này có mắc bệnh tâm thần không, nhưng trong số này có cả một số cựu Sĩ Quan từng bị Cộng Sản bắt nhốt hàng chục “Mùa Thu” trong Trại Tù BV. Vài người trước đây không bị tù đầy, quen miệng vì nghe người khác nói “Giải Phóng” ở ngoài chợ thì có lẽ chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, nhưng chữ “Giải Phóng” phát ra từ miệng một ông cựu Đại úy, hoặc Thiết tá, ăn bo bo mút chỉ ở Lạng Sơn, Cao Bắc Lạng, khi về mất cả vợ con, thì thật là một hiện tượng quái đản không ai chấp nhận được. Điều đáng ngạc nhiên hơn là khi có người gọi ngày 30/4/75 là “Giải Phóng”, người nghe vẫn thản nhiên không cải chính, không sửa lưng mà vẫn thản nhiên chấp nhận coi như không nhằm nhò gì. Hiện tượng này trước đây xảy ra rất thường xuyên nhưng nay tuy đã bớt, vẫn còn đôi khi xuất hiện, một phần vì người nói thiếu ý thức và Chính Danh Chính Trị, và người nghe bàng quan không muốn than phiền để làm mất lòng người khác, nhất là khi người đó từng là Sĩ Quan Cấp Tá “từng 10 năm đốn gỗ trên rừng”. Điều nhục hơn nữa là chính bây giờ Cộng Sản đã thú nhận xâm lăng Miền Nam, mà Người Miền Nam vẫn còn quen miệng gọi là “Giải Phóng”.



f. Tù Hay Cải Tạo: Cảnh tù đầy ở VN sau ngày Cộng Sản xâm chiếm là một hiện tượng cả thế giới đã biết, đã công phẫn. Báo chí quốc tế vẫn gọi rõ những “goulag” Việt Nam là các Trại Tù, Trại Tập Trung, giống như những địa điểm Đức Quốc Xã nhốt và tiêu diệt dân Do Thái hay quân đội Đồng Minh Thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thế mà chính Người Tù từ những cõi chết này trở về lại gọi đó là “Trại Cải Tạo”, và những năm họ bị nhốt trong Trại Tù là “Thời Gian Học Tập”. Một số Sĩ Quan và Viên Chức chính quyền VNCH dường như trước đây không biết hay không đọc Hiệp Định Paris, trong đó có ghi rõ rằng phe Bắc Việt không được phép bắt tù các thành phần Quốc Gia Miền Nam. Để tránh chữ “Bắt Tù” và bịp thế giới, CSBV đổi các Trại Tù thành “Trại Cải Tạo” để đánh lừa dư luận và cho quốc tế thấy chúng tuân hành Hiệp Định 1973 về Việt Nam. Một số SQ/QLVNCH đã bị sập bẫy tuyên truyền của Công An, kể cả một ông SQ cao cấp là Đại Tá Nguyễn Thu Lương, trong cuốn phim “Người Lính”, gọi thời gian đi tù “Là Thời Gian Cải Tạo” và Trại Tù là “Trại Cải Tạo”. Ngược lại, Đại Tá Võ Công Hiệu, trong bộ phim “Hành Trình Tìm Tự Do”, khẳng định là ông Đi Tù, không hề nhắc tới chữ “Cải Tạo”. Trong đầu hai vị SQ cao cấp này, một từng là Lữ Đoàn Trưởng Dù, một là Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, ý niệm Chính Danh Chính Trị thực sự đã đứng giữa Bóng Tối và Ánh Sáng.



g. Cố Tình Hay Vô Tình: Kể từ bắt đầu Thập Niên 90’s, Người Tị Nạn Việt Nam, một số thành phần Quốc Gia, Cựu Tù Nhân Chính Trị đã đánh mất thế đứng Chính Danh của mình trước dư luận quốc tế, rơi vào cái bẫy đổi mới và mở cửa của bọn gian manh Bắc Việt. Khi CSBV đói gần chết, cạn kiệt ngoại tệ, và bị Bố Liên Sô bỏ rơi, nó tung đòn “Mở Cửa” để chiêu dụ Người Việt Hải Ngoại. Những con người ngây thơ một lần bỏ nước hy sinh mạng sống ra đi trên biển cả, trên đường bộ, lũ lượt kéo nhau về thăm quê cũ, lấy cớ rằng bố sắp chết, mẹ đau, con cưới vợ, cháu lấy chồng, ồ ạt áo gấm về làng. Trước 1990, số người về tuy có nhưng ít xuất phát từ Mỹ mà chỉ từ các quốc gia Âu Châu hay Úc. Thập Niên 90’s mở màn, CSVN tung thêm chưởng để Mồi Chài Người Tị Nạn có quốc tịch Mỹ về làm ăn, buôn bán, nhưng thực ra chẳng làm ăn được gì, có người sau đó phải bỏ của chạy lấy người. Thế mà vẫn có dân Việt Hải Ngoại Huênh Hoang “Áo Gấm Về Làng”, để nhận lấy chiêu bài đĩ điếm mà Cộng Sản tặng cho ngày bỏ nước ra đi. Ngồi trên chiếc ghe ọp ẹp giữa biển khơi tưởng sắp làm mồi cho cá mập, họ thề rằng không bao giờ họ về với Cộng Sản. Nhưng chỉ một thập niên, chính những con người từng “Bỏ Phiếu Bằng Chân” để tố cáo CSVN với thế giới lại có mặt ở Sài Gòn, ăn chơi phè phởn, ôm gái ở khách sạn, hay xây nhà xây cửa cho vợ hai ở Biên Hòa. Họ cố tình hay vô tình về để ủng hộ Cộng Sản? Người Tị Nạn, hay Cựu Tù Chính Trị, về thăm đường xưa lối cũ đều biện bạch rằng: “Không, tôi về vì gia đình, vì nhà cửa, tôi không ủng hộ Cộng Sản”. Lời biện bạch mới nghe có vẽ hiền lành lương thiện ấy chẳng che dấu sự thực, một sự thực phũ phàng: Trong số tiền vé máy bay từ ngoại quốc về Việt Nam từ 800 dollars tới 1500 dollars 10% được nộp vào túi Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho Võ văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh mua nhà ở Pháp, gửi tiền ở Thụy Sĩ, gởi con đi du học ở Mỹ, nuôi gái ở Nhật .... Số tiền khổng lồ ấy do Người Tị Nạn tặng cho Đảng đã được dùng để mua súng ở Trung Cộng, để mua tăng ở Nga, mua hoả tiển ở Tiệp, để nuôi quân ở Lào, ở Cam Bốt, để lập toà lãnh sự ở San Francisco, để lập cửa hàng thương mãi cho Đảng ở Los Angeles, để thực hiện phim tuyên truyền gửi ra cho các tiệm sách báo ở Paris, ở Praque, ở Toronto, ở New York. Tiền súng tiền tuyên truyền, tiền cho con đi học ở ngoại quốc là tiền của Quý Vị đấy. Cả số tiền khổng lồ dành cho Công An bắt nhốt và theo dõi Quý Vị cũng là tiền của Quý Vị đấy. Cái còng tay mang nhãn hiệu Made in USA để bắt nhốt BS Nguyễn Đan Quế, Ông Võ Đại Tôn, Bà Dương Thu Hương v.v... đều đã được mua bằng tiền của Người Tị Nạn Hải Ngoại đóng góp qua vé máy bay, tiền điện thoại, gửi tiền v.v….



Quý Vị có lẽ vô tình không nhận thức rằng trong các Quốc Gia Á Châu và Đông Nam Á, giá điện thoại gọi từ ngoại quốc về Việt Nam cao nhất. Quý Vị gọi thăm cha mẹ, anh em, con cháu là điều Quý Vị nghĩ tới, nhưng mỗi luồng sóng trên đường giây cũng mang vào cho Đảng một khoảng tiền mà Quý Vị không bao giờ nghĩ tới. Nếu có Chính Danh Chính Trị, Quý Vị sẽ nhận ra rằng tại sao từ một quốc gia Âu Mỹ vào Đông Nam Á, kỹ thuật cũng như nhau mà giá điện thoại vào VN cao gấp đôi nước khác. Thưa vì, trong cái thế giới mờ ám ở Việt Nam, đường giây điện thoại là một kế hoạch kinh doanh lợi hại của Đảng Cộng Sản. Từ Mỹ đi Đài Loan, Nhật, Singapore luồng sóng điện thoại đi từ vệ tinh xuống tổng đài một cách công khai, ngay thẳng. Nhưng cái đường giây từ Mỹ, từ Pháp, từ Canada về Việt Nam nó chui xuống gầm bàn rồi chạy vào phòng họp của Bắc Bộ Phủ, sau vào túi Đảng, để Đảng mua Súng Đạn, mua Xăng Nhớt, mua Biệt Thự, mua Sâm Cao Ly, mua Nhà Bắc Mỹ.



Một số đông những Cựu Tù Chính Trị Việt Nam, 28 năm sau ngày gãy súng, đã đánh mất lập trường và có người đánh mất cả liêm sĩ, quên nhìn gương những Cựu Tù Chính Trị Cuba, Bắc Hàn, Nga, BaLan v.v.... Trong lịch sử thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến, chưa có người Cựu Tù Chính Trị CuBa, Bắc Hà, Nga, Ba Lan trở về quê cũ để sống, để làm ăn hay chỉ thăm gia đình, nơi mà Cộng Sản còn cầm quyền. Họ chỉ trở về sau ngày tàn của Cộng Sản ở Đông Âu và bức tường Bá Linh bị dân Đông Đức đập bỏ, cũng như những guồng máy bạo quyền ở Đông Âu trở thành gạch vụn của quá khứ. Họ có thể tự hào nói với thế giới họ là những người không chấp nhận chủ thuyết Cộng Sản ở quê hương họ hay bất cứ nơi nào, và không thể nào trở về dưới gông cùm của kẻ thù. Có người Cựu Tù Chính Trị Việt Nam sẽ nói rằng: “Tôi về quê hương, tôi không về với kẻ thù”. Đó là một thứ luận điệu ấu trĩ mà người Cựu Tù Cu Ba, Nga, Đông Đức không chấp nhận. Ông về thăm một xứ Cộng Sản, dù là quê cũ của ông, ông phải xin Cộng Sản chấp thuận đơn xin Visa của Ông, nghĩa là ông chấp nhận bạo quyền Cộng Sản, ông phải nộp tiền lệ phí xin Visa cho Đảng Cộng Sản, ông chi tiền máy bay để 10% từ đó đi vào túi Đảng. Dù ông không biết hay không muốn biết, ông đã trực tiếp hay gián tiếp nuôi cái Đảng Cướp ngày xưa muốn giết ông, đốt nhà ông, sát hại đồng ngũ của ông và có thể kể cả cướp người đàn bà trẻ ngày xưa là vợ của ông. Bây giờ ông về sống dưới bàn tay tên cướp đó, nhận nó là Chính Quyền của ông, đóng tiền nuôi cả nhà nó thì ông còn liêm sĩ hay không? Ông từng là Sĩ Quan,QLVNCH, từng là thành phần chính quyền VNCH, ông có đọc được bài học liêm sĩ từ những ngượi tù Chính Trị Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga Sô, Đông Đức không?



h. Chính Danh Dân Tộc: Đây mới là chủ điểm trong học thuyết Chính Danh của Khổng Tử, bậc thầy của mọi suy tư luân lý Chính Trị. Chính Danh Dân Tộc là một nền tảng trên đó xây dựng mọi thứ Chính Danh khác như Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị v.v…. Chính Danh Dân Tộc là nền móng một căn nhà trên đó có những cây cột để phân thành những Chính Danh phụ thuộc và nếu không có Chính Danh Dân Tộc, các nguyên tắc Chính Danh khác không có điểm tựa để tồn tại. Tại sao Chính Danh Dân Tộc quan trọng đến độ ấy?



Sự quan trọng của Chính Danh Dân Tộc tiềm tàng trong đời sống căn bản của mỗi người, vì không có cá nhân nào không thuộc vào một bộ lạc, một sắc dân, một xã hội, dù xã hội đó bán khai hay tân tiến. Cá Nhân là cây, Dân Tộc là rừng. Cá Nhân là Cá, Dân Tộc là Nước. Đó là tương quan vật lý, nhưng theo đó còn tồn tại tương quan tâm lý mà con người biết rằng mình không phải là một sinh vật lẻ loi mà tuỳ thuộc vào một tập thể trong đó có một lưu thông hai chiều: Cá Nhân nhận ảnh hưởng của Tập Thể, và Tập Thể tạo nên Sức Mạnh từ nhiều Cá Nhân. Cùng trong sự lưu thông đó, Cá Nhân phải chia xẻ những vấn đề chung của Tập Thể, để được trở thành một thành phần cuả Tập Thể đó. Những Cá Nhân không chia xẻ các vấn đề chung của Tập Thể là những Cá Nhân lạc lỏng, bơ vơ, vô lương tâm hay đã bị Tập Thể đào thải. Cũng có những Cá Nhân tưởng mình không cần tới Tập Thể và muốn tự đào thải vì những quyền lợi đi ngược lại với quyền lợi của Tập Thể.



Dân Tộc ta quằn quại một trăm năm dưới gót giầy của thực dân, và ngất ngư hơn nửa thế kỷ trong gông cùm của loài ma quỉ đó. Quảng thời gian dài hầu như vô tận và đau thương đã làm cho Dân Việt gắn bó với nhau để chung sống, tồn tại, và vươn lên. Vì mọi Người Việt đều chia xẻ với nhau những thương đau của lịch sử, chúng ta đã có câu nói ngàn đời còn vang bên tai biểu lộ sự gắn bó này, đó là châm ngôn: “Một Con Ngựa Đau, Cả Tàu Không Ăn Cỏ”. Châm ngôn đó nói lên một điều là không một Người Việt nào thấy đồng loại rơi vào thảm cảnh mà không mũi lòng, như một chuồng ngựa ngưng ăn chỉ vì một con ngã gục. Dưới Thời Bắc Thuộc, chúng ta chia cuộc sống khốn cùng của người bị ngoại thuộc, đến Thời Pháp dân ta cưu mang nhau để tìm ngày vùng dậy, lịch sử đã chứng minh. Ngày nay, khi 80 triệu người còn nghẹt thở trong Cơn Hồng Thủy ở quê nhà, chúng ta còn nhiều người thờ ơ đến độ vô liêm sĩ, vẫn chủ trương “Sống Chết Mặc Bay” vì gia đình mình còn may mắn. Họ biết chỉ họ may mắn là đủ, những người khác dù bất hạnh cũng không làm họ mũi lòng. Họ không có mối thù nào với Cộng Sản, vì họ cho rằng Cộng Sản chưa làm gì đụng đến cuộc sống của họ và gia đình. Gần 30 năm trước, khi lớp người vượt biển tìm tự do hy sinh mạng sống trên biển cả hay giữa vùng tử địa Cam Bốt, họ vẫn ung dung vì họ và gia đình họ đã thoát nạn, ung dung ở xứ người.



Một ngày đẹp trời nào đó, họ ung dung dẫn vợ con, họ hàng về Việt Nam chơi. Họ chơi cái gì Quý Vị thừa biết. Họ Đóng Cảnh “Áo Gấm Về Làng” để khoe những thành công gặt hái được nơi xứ lạ, vụ này cả nước đã nghe rồi. Nhưng một ngày đẹp trời nào khác, họ ung dung tìm một nơi ăn nhậu thật vui và dẫn nhau đi vào một Nhà Hàng Thái để ăn món lạ thay cho đồ Việt dùng hàng ngày. Ai không có Chính Danh Dân Tộc chắc hẳn sẽ ngồi thưởng thức những món ăn độc đáo của một tiệm Thái Lan, quên rằng 28 năm trước đó, đại hoạ lớn nhất cho Người Việt đi tìm tự do trên biển cả chính là Người Thái, những Ngư Phủ dã thú đội lốt người, hoành hành trên vùng Biển Đông chờ những con thuyền ọp ẹp trên đó đầy vàng và phụ nữ trẻ đẹp. Biết bao nhiêu thanh niên đã bỏ xác dưới biển, biết bao trẻ em bị quăng xác xuống làm mồi cho cá, biết bao phụ nữ Việt Nam chịu nhục nhã dưới bàn tay sát nhân của Ngư Phủ Thái, và chính họ, sau khi tấm thân bị nhơ nhuốc vì bọn Ngư Phủ Hải Tặc, cũng bị ném xuống biển, hay chồng họ bị mã tấu chém ngang cổ vì ra tay bảo vệ vợ con. Ngày nay, Người Việt thản nhiên ngồi nuốt đồ ăn Thái, quên đi những cực hình bi thảm của Dân Tộc ta trong những ngày dài của 10 năm dân ta chập chờn giữa cảnh chín chết một sống ở Biển Đông mà Ngư Phủ Thái là thủ phạm. Hồi đó, chính dân Thái làm ngơ cho Ngư Phủ Thái hoành hành, chính quyền Thái nhắm mắt cho hải tặc hốt của và hiếp gái Việt, trả thù món nợ lịch sử gần một ngàn năm trước. Đến Sư Sãi Người Thái cũng lặng thinh, không cần biết đến thảm cảnh Biển Đông mà dân Thái, mặc dù tự xưng là con Phật, đòi nợ máu Dân Việt Tị Nạn.



Nếu suy rộng ra, Chính Danh Dân Tộc là một tổng hợp của lịch sử, của Văn Hoá, của các truyền thống, và của mọi sắc thái dân tộc tính. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Người Việt theo Cộng Sản và đổi Dân Tộc thành Đảng Tộc, coi Các-Mác là Tổ Tiên. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Chủ Thuyết Ngoại Lai du nhập vào xứ sở đổi con Người Việt Nam thành Mác-Xít, thành Hippi, thành Đợt Sống Mới, thành Hiện Sinh, thành Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, thành Cao Bồi, thành Henry, John, Ronald, Mary, Jean, Elizabeth, thành đủ thứ lai căng, mất gốc, nhi nhô, ngoại nhập, nửa đực nửa cái không ra thể thống gì. Có người mất Chính Danh Dân Tộc còn cố biện bạch và vin vào Tôn Giáo để bào chữa. Một ông ở Cali vừa tạ thế, con cái đăng cáo phó cho cha mới khuất là Nguyễn ..., “Thánh danh Robert”. Xin Quý Vị coi lại thánh kinh xem có vị thánh nào tên “Robert” không. Đây chỉ là một trường hợp điển hình của những Bộ Óc Vọng Ngoại đi ngược lại nguyên tắc Chính Danh Dân Tộc nhan nhản trong Tập Thể Người Việt ở Hải Ngoại. Nhiều vị phụ huynh đánh mất Chính Danh Dân Tộc, hồ hởi đặt tên con theo tiếng Mỹ, cho con cái nói tiếng Anh trong nhà để mau trở thành Mỹ. Đến khi con cái hư hỏng, đối xử tệ bạc với cha mẹ thì mới biết rằng nó sống theo lối Mỹ và lúc đó thì đã muộn.



C. Kim Chỉ Nam Chính Danh:



Đã ba thập niên qua rồi, lịch sử thế giới đã chứng tỏ được sự thật và những huyền thoại về Cuộc Chiến Việt Nam, một cuộc chiến chính đáng và hợp đạo đức con người, trừ khía cạnh của Người Cộng Sản. Người Việt Tị Nạn, nhất là những người đã từng nếm mùi trong các trại khổ sai sau tháng 4/1975 đã mang được tiếng nói Chính Nghĩa. Chính Danh trải khắp Bốn Biển, Năm Châu để thức tỉnh lương tâm thế giới. Ngay cả một số Nhà Văn, Nhà Báo, Học Giả Ngoại Quốc trước đây từng ủng hộ Hà Nội cũng đã sám hối, tiếp tay tuyên dương thế đứng Chính Danh của Người Việt Hải Ngoại. Nhưng bên trong tập thể chúng ta, một số người vì u tối, vì quyền lợi, vì tình cảm, đã cố tình hay vô ý thức đánh mất Chính Danh, từ Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Tập Thể, tới Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị, và Chính Nghĩa của Đại Đa Số Người Việt.



Chính Danh, học thuyết từng chứa đầy trong hàng ngàn cuốn sách, hàng triệu bài viết, từng chi phối hàng ngũ Chính Trị gia từ thời nước Tàu lập quốc và qua những thời đại mới sau này, không thể được diễn tả đầy đủ trong mấy trang báo nhỏ. Dù sao, nó vẫn là Kim Chỉ Nam cho mọi cuộc tranh đấu, Khuôn Vàng Thước Ngọc cho mọi bàn tay cầm vận nước hay vận mệnh một Tập Thể, một Phong Trào Tranh Đấu Văn Hoá, Chính Trị như cuộc tranh đấu của Người Việt Hải Ngoại trong ván bài của lịch sử hiện nay. Niềm đau mất nước sau cuộc chiến vẫn là niềm đau không nguôi chung của hai triệu người bỏ xứ ra đi và hơn 80 triệu dân còn mất tự do dưới chế độ mọi rợ của những người cầm quyền xuất xứ từ hang Pắc Bó. Niềm đau ấy theo thời gian vẫn tăng cường độ cho một người còn nuôi Chính Danh và chung thuỷ với dân tộc tính, nhưng sẽ phai lạt dần với những người đã đánh mất Chính Danh dù Cá Nhân hay Tập Thể. Lớp người này tuy mang hình dáng Con Người, nhưng cuộc sống của họ là lằn da con Cắc Kè ở bờ dậu, thấy lợi là Đổi Màu.



Giữa cảnh xuân sắp sang lần thứ 34 ở quê người, tôi chỉ xin gửi tới Quý Vị lá thư Chính Danh để cùng suy ngẫm, không phải để mua vui, mà để chúng ta Cùng Sám Hối với Tổ Tiên, với Đất Nước, nhất là đối với những Người Đã Nằm Xuống vì Chính Nghĩa và Chính Danh. Dù là Anh Lính không cấp bậc, anh Dân Vệ mộc mạc ở xóm làng, hay một Người Dân không tên tuổi, những Người Nằm Xuống vì Chính Danh vẫn là những Người Hùng, những Kẻ Sĩ thực sự đóng được vai trò Kẻ Sĩ của Luân Lý, của Đạo Đức, của Chủ Nghĩa Quốc Gia, của Chính Nghĩa và Chính Danh. Chính Danh đi đôi với Chính Nghĩa, và chỉ khi nào chúng ta giữ được Chính Danh, chúng ta mới nắm trong tay chìa khoá để chiến thắng Cộng Sản.

Sĩ Tỉnh - Ha Uy Di 2008